Thứ Hai, 18 tháng 4, 2022

PHONG TRÀO CỘNG SẢN QUỐC TÉ : QUỐC TẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

 




VII. Quốc tế Xã hội chủ nghĩa

Quốc tế Xã hội chủ nghĩa (Socialist lnternational, viết tắt là SJ) là một tổ chức quốc tế tập hợp các Đảng Xã hội - dân chủ, các Đảng Xã hội chủ nghĩa và các Đảng Công nhân (hoặc Công đảng) đang hoạt động ở nhiều nước tư bản chủ nghĩa và một số nước khác trên thế giới. Tổ chức này được thành lập tại Đại hội lần thứ nhất họp ở thành phố Phranphuốc trên sông Mainơ (CHLB Đức) từ ngày 30-6 đến 3-7-1951. Đến nay, Quốc tế Xã hội chủ nghĩa đã tiến hành được 18 đại hội. Đại hội gần đây nhất là Đại hội lần thứ 18 tại Xtôckhôm (Thụy Điển) từ ngày 20 đến 22-6-1989. Cơ quan ngôn luận chính thức của Quốc tế Xã hội chủ nghĩa là Bản tin xuất bản bằng tiếng Anh - ''Socialist Affairs'' (Những vấn đề Xã hội chủ nghĩa).

Quốc tế Xã hội chủ nghĩa là hiện thân của trào lưu xã hội - dân chủ hiện đại, tự mình khẳng định sẽ phấn đấu cho những giá trị truyền thống của mình và cố gắng đổi mới để đáp ứng những đòi hỏi của thời đại ngày nay.

Trong Đại hội thành lập của mình, Quốc tế Xã hội chủ nghĩa đã ra bản tuyên bố có tính chất cương lĩnh với nhan đề ''Về mục tiêu và nhiệm vụ của chủ nghĩa xã hội dân chủ'', trong đó định hình rõ khái niệm ''chủ nghĩa xã hội dân chủ''. Ở đây, các thành viên của Quốc tế Xã hội chủ nghĩa muốn thay thế khái niệm ''chủ nghĩa cải lương xã hội'' trước đó, và muốn đề cao vấn đề ''dân chủ'' trong mọi mặt của đời sống xã hội, mà trước hết là dân chủ về xã hội. Các đảng trong Quốc tế này dự định thực hiện ''bằng biện pháp dân chủ'' trong tất cả các lĩnh vực của đời sống để cải cách chủ nghĩa tư bản thành chủ nghĩa xã hội.

Quốc tế xã hội chủ nghĩa đã không ngừng phát triển về số lượng vàtổ chức của mình. Năm 1976, Quốc tế có 66 đảng và các tổ chức thành viên. Đến năm 1986, số lượng các đảng và tổ chức thành viên là 82. Số lượng đảng viên của tất cả các đảng thuộc trào lưu xã hội - dân chủ năm 1972 gồm 14,4 triệu, năm 1983 là 20 triệu và năm 1986 là 16 triệu. Qua các cuộc bầu cử vào nghị viện, các Đảng Xã hội - dân chủ thu được số phiếu bầu đáng kể của cử tri, chứng tỏ khả năng nhất định về mặt vận động và thu hút quần chúng của họ: năm 1976, họ thu được 80 triệu cử tri; năm 1983, là 210 triệu và năm 1986 là 100 triệu cử tri.

Ngoài các đảng là thành viên hoạt động ở nhiều nước tư bản chủ nghĩa, Quốc tế Xã hội chủ nghĩa còn lập ra một hệ thống các tổ chức như: Hội quốc tế của những người xã hội trẻ, Phụ nữ quốc tế xã hội, Quốc tế thể thao công nhân, Hội quốc tế nhà giáo dân chủ - xã hội, Tổ chức xã hội chủ nghĩa châu Á - Thái Bình Dương, Hội liên hiệp sinh viên quốc tế xã hội chủ nghĩa, Liên đoàn công nhân Do Thái quốc tế, v.v…

Tháng 4 - 1974, Quốc tế Xã hội chủ nghĩa đã thành lập một tổ chức mới lấy tên là ''Liên minh các Đảng Xã hội - dân chủ thuộc Cộng đồng châu Âu''. Tổ chức này bao gồm các đảng có đại biểu tham gia nghi viện của Cộng đồng châu Âu. Đảng đoàn xã hội - dân chủ là đảng đoàn lớn nhất trong 8 đảng đoàn của nghị viện đó, với 131 đại biểu trong tổng số 434 đại biểu Đảng đoàn xã hội - dân chủ tham gia hoạt động trong tất cả 18 ủy ban của nghị viện Cộng đồng châu Âu, nhằm thực hiện ba mục tiêu:

- Cố tạo ra sự đồng nhất của châu Âu để đối chọi lại với các nước xã hội chủ nghĩa

- Tăng cường vai trò của các nước Tây Âu trên vũ đài quốc tế để đối chọi lại với Mĩ.

- Chủ trương cùng nhau giải quyết các vấn đề hợp tác về kinh tế, chính trị, an ninh chung của các nước trong Cộng đồng châu Âu.

Để tăng cường hoạt động trên bình diện châu Âu, Quốc tế Xã hội chủ nghĩa còn lập ra các tổ chức khác như: Đảng Nhân dân châu Âu (EVP), Liên minh Dân chủ châu Âu (EDU), Những người dân chủ tự do châu Âu (ELD)… Ngoài ra, Quốc tế Xã hội chủ nghĩa còn thành lập các ủy ban như: năm 1977,Ủy ban Nam Phido Ôlốp Panmơ, Phí chủ tịch Quốc tế Xã hội chủ nghĩa đứng đầu. Năm 1982,Uỷ ban chính sách kinh tếdo V.Bơran, Chủ tịch Quốc tế Xã hội chủ nghĩa trực tiếp phụ trách. Một số ủy ban khác cũng được thành lập, như ủy ban các vấn đề Trung Cận Đông do Craixki, Phó chủ tịch Quốc tế Xã hội chủ nghĩa phụ trách; Ủy ban thế giới về môi trường và phát triển do G.H Brulen, nữ Thủ tướng và là Chủ tịch Đảng Công nhân Nauy lãnh đạo; Ủy ban bảo vệ Nicaragoa, v.v.. cũng được thành trong thời gian gần đây.

Tại Đại hội 13 của Quốc tế Xã hội chủ nghĩa (họp tại Giơnevơ năm 1976), ban lãnh đạo của Quốc tế này đã được kiện toàn với tinh thần đổi mới mạnh mẽ, Bơran là Chủ tịch danh dự Đảng Xã hội-dân chủ ở CHLB Đức đã được bầu làm Chủ tịch Quốc tế Xã hội chủ nghĩa lần thứ hai trong cương vị này và liên tiếp được tín nhiệm cho đến nay. Ngoài ra, Đại hội đã bầu ra 14 phó chủ tịch, trong đó có 7 người đại diện cho các đảng ở châu Âu. Ban lãnh đạo đó gồm những người vừa đại diện cho các Đảng Xã hội dân chủ tiêu biểu, vừa giữ những chức vụ cao trong chính quyền ở các nước đó. Đạc biệt là những người có tên tuổi như Bơran, Mitơrăng, Ôlốp Panmơ, B. Craixki…

- Quốc tế Xã hội chủ nghĩa cố gắng thích nghi với những biến đổi trên thế giới, đã thay đổi cương lĩnh trước đây và đề ra cương lĩnh mới cho giai đoạn hiện nay.

Trong những năm gần đây, trước sự biến động của tình hình thế giới, các Đảng Xã hội - dân chủ muốn đề ra một cương lĩnh mới thay thế cho cương lĩnh 1951. Những người xã hội - dân chủ thường nói đến khái niệm “thời đại Bơran”, có nghĩa rằng, từ khi Bơran trở thành Chủ tịch mới của Quốc tế năm l976, đã mở ra ''một thời kì mới'', có nhiều thay đổi tiến bộ trong hoạt động của trào lưu xã hội - dân chủ hiện đại. Tất nhiên, ngoài Bơran, còn có cả một thế hệ những nhà lãnh đạo mới - Ôlốp Panmơ, Mittơrang, Craixki, B.Craxi, Mariô Soarexơ v.v… đều là những nhân vật có đầu óc thực tế có khả năng tự thẩm định đường lối trước đây của Quốc tế Xã hội chủ nghĩa và đánh giá sát sự biến đổi của thế giới ngày nay.

Cương lĩnh Phranphuốc 1951 của Quốc tế là cương lĩnh của thời kì “chiến tranh lạnh''. Nó chủ trương ''đa nguyên thế giới quan và đoạn tuyệt với thế giới quan khoa học của giai cấp công nhân. Công khai thừa nhận và đề cao chế độ dân chủ đại nghị tư sản và từ bỏ yêu sách giai cấp công nhân giành chính quyền, từ bỏ những truyền thống cũ của xã hội – dân chủ trong những thập niên trước đây, cương lĩnh đó thấm đầy tinh thần “chống cộng” và chống chủ nghĩa xã hội khoa học.

Đại hội 13 của Quốc tế ở Giơnevơ năm 1976 đã bắt đầu đề cập đến yêu cầu thay đổi cương lĩnh cho phù hơp với tình hình thế giới đã thay đổi. Nhiều đại hội của Quốc tế trong thập niên 80 tiếp tục thảo luận và dự thảo cương lĩnh. Chủ tịch Bơran nhận định rằng: ''Một hoàn cảnh khác trong nền chính trị thế giới và những vấn đề toàn cầu mới như cuộc xung đột Bắc - Nam, việc chạy đua hạt nhân, các vấn đề về trật tự kinh tế thế giới, tình trạng quyền con người ngày càng bị dồn nén và đe dọa…đòi hỏi ở Quốc tế Xã hội chủ nghĩa một năng lực chính trị mới, nếu nó thực sự muốn tồn tại trên thế giới.''

Sau một thời gian chuẩn bị. Cương lĩnh mới của Quốc tế Xã hội chủ nghĩa đã được công bố ở Đại hội 18. Đại hội này họp ở Xtốckhôm (Thụy Điển) vào 6-1989, nhân kỉ niệm 100 năm ngày thành lập Quốc tế II (1889-1989). Bản ''Tuyên ngôn về những nguyên tắc'' của Quốc tế Xã hội chủ nghĩa, với ý nghĩa là một Cương lĩnh mới đã chỉ đạo hoạt động của Quốc tế Xã hội chủ nghĩa từ đó cho đến hết thế kỉ XX và chuẩn bị bước sang thế kỉ XXI, đã gây tiếng vang trên thế giới.

So với Tuyên bố Phranphuốc 1951, trong Tuyên bố Xtốckhôm 1989 có những thay đổi đáng kể về quan niệm tư duy và định hướng hoạt động của mình. Nhiều nhận định về thế giới ngày nay đã được đưa ra như: tính chất phụ thuộc lẫn nhau với các nước trên hành tinh, những tác động to lớn của cuộc các mạng khoa học - công nghệ; những khả năng mới đem lại cho con người và đồng thời sự tiềm ẩn những thảm họa; những mâu thuẫn giữa những nước nghèo và nước giàu, giữa những nước đang phát triển và phát triển; mâu thuẫn giữa các nước phương Đông và phương Tây và mâu thuận giữa “khu vực Bắc” và ''khu vực Nam''. Quốc tế Xã hội chủ nghĩa đặc biệt nhấn mạnh đến những giá trị chung của loài người như: hòa bình, tự do, dân chủ, bình đẳng, công bằng, nhân đạo, đoàn kết…

Quốc tế Xã hội chủ nghĩa đã cố gắng đề ra những kiến giải và biện pháp cụ thể về nhiều vấn đề như: xây dựng trật tự kinh tế và chính trị thế giới mới, đẩy mạnh quá trình hòa dịu, đối thoại và giải trừ quân bị, bảo vệ hòa bình và tránh thảm họa hạt nhân; việc bảo vệ môi trường và giải quyết vấn đề nợ nần giữa các nước trên thế giới; nhấn mạnh sự hợp tác và nỗ lực quốc tế chung để kiếm soát và giải quyết các vấn đề chung của thế giới hiện đại.

Bản Tuyên ngôn có tính cương lĩnh đó cũng nêu lên những tham vọng của ''chủ nghĩa xã hội dân chủ'' nhằm mục tiêu ''đạt được một thiết chế quốc tế có thế tăng cường những giá trị cơ bản, sử dụng những bảo đảm của các quyền công dân và quyền con người trong một xã hội dân chủ''. Tuyên ngôn nhấn mạnh tính đa nguyên trong quan niệm và tổ chức của những người xã hội - dân chủ. Họ kêu gọi thực hiện con đường dân chủ hóa và tự do hóa ở các nước xã hội chủ nghĩa, thực chất là tuyên truyền cho thuyết đa nguyên chính trị mà họ chủ trương, nhằm dẫn đến sư hội tụ thế giới quan, hội tụ quan điểm giữa hai trào lưu.

Quốc tế Xã hội chủ nghĩa cố gắng đáp ứng những vấn đề xã hội và những vấn đề toàn cầu

Các Đảng Xã hội - dân chủ, nhất là những đảng nắm chính quyền trong các nước tư bản, có những chính sách đáp ứng những lợi ích nhất định của người lao động, đặc biệt họ đã đạt được những tiến bộ xã hội trong mấy thập niên gần đây. Họ nhạy cảm với tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, cả những yếu tố tích cực và tiêu cực tới đời sống kinh tế - xã hội. Họ đưa ra những chính sách như tăng lương cho công nhân; giảm thất nghiệp và trợ cấp thất nghiệp; nâng cao trợ cấp hưu trí, giảm giờ lao động trong tuần, tăng thời gian nghỉ ngơi hàng năm cho người lao động v.v... và đòi các giới kinh doanh phải thực hiện những chính sách có lợi cho người lao động. Nhiều Đảng Xã hội - dân chủ cầm quyền như ở Thụy Điển, Áo, CHLB Đức đã có những chỉnh sách hạn chế tư bản độc quyền, đòi chủ tư bản nhân đạo hóa lao động, hoàn thiên cơ chế quản lí kinh tế thị trường và tăng các chính sách xã hội, đáp ứng phần nào đòi hỏi chính đáng của người lao động. ''Liên minh các Đảng Xã hội - dân chủ trong Cộng đồng châu Âu'' gốm 13 Đảng Xã hội - dân chủ, với 4 triệu đảng viên, trong những năm qua đã tăng cường hoạt động theo hướng trên.

Về đường lối quốc tế, các đảng thuộc Quốc tế Xã hội chủ nghĩa ủng hộ việc giữ gìn hòa bình thế giới và tán thành mục tiêu xóa bỏ nguy cơ “chiến tranh lạnh”, chống chạy đua vũ trang, bày tỏ quan điểm thực hiện chính sách hòa dịu. Họ có những sáng kiến tác động tích cực đến các nước lớn, đặc biệt là Mĩ và Liên Xô, để thực hiện quá trình hòa dịu quốc tế.

Họ rút ra những kết luận cần thiết về cuộc khủng hoảng rộng lớn của xã hội công nghiệp đã gây ảnh hưởng xấu đến toàn bộ nền văn minh nhân loại. Từ Đại hội 1976, Quốc tế xã hội chủ nghĩa đã đề cập đến tình trạng môi trường bị suy thoái, cảnh đói nghèo và nợ nần trên thế giới và đề ra chủ trương thực hiện ''ba cuộc tiến công'': cuộc tiến công vì hòa bình; cuộc tiến công vì quan hệ Bắc -Nam, và cuộc tiến công vì các quyền con người.

Đối với các nước xã hội chủ nghĩa, Quốc tế Xã hội chủ nghĩa đã có chủ trương cải thiện rõ rệt. Họ khuyến khích các Đảng Xã hội - dân chủ tiếp xúc, đối thoại với các Đảng Cộng sản, công nhân dựa trên nguyên tắc của họ. Từ đó đến nay nhiều đại hội của các Đảng Xã hội - dân chủ (cũng như đại hội của các Đảng Cộng sản và công nhân các nước XHCN) đã có đại biểu của hai bên tham dự. Đáng chú ý nhất là tại lễ kỉ niệm 70 năm Cách mạng tháng Mười ở Matxcơva (11-1987) đã có 26 đoàn đại biểu các Đảng Xã hội - dân chủ tham dự. Nói chung, trên vấn đề bảo vệ hòa bình, an ninh và hợp tác quốc tế ngày nay, lập trường của những người Xã hội - dân chủ rất gắn với lập trường của những người cộng sản. Đó là nhân tố tạo cơ sở xích lại gần nhau giữa hai trào lưu chính của phong trào công nhân quốc tế trong giai đoạn hiện nay.

Tuy nhiên vẫn còn không ít những khó khăn và những bất đồng cơ bản tồn tại giữa trào lưu xã hội - dân chủ và những người cộng sản. Từ nhiều phía khác nhau, người ta đã phê phán và đi đến phủ nhận chủ nghĩa xã hội khoa học, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin. Những người xã hội – dân chủ cánh hữu đã lợi dụng tình hình khủng hoảng của các nước xã hội chủ nghĩa để lên án và mưu toan loại bỏ chủ nghĩa xã hội hiện thực, phủ nhận chủ nghĩa xã hội khoa học và khẳng định ''con đường thứ ba'' của họ là đúng đắn.

Cương lĩnh mới của Quốc tế Xã hội chủ nghĩa thể hiện những toan tính, mong muốn các nước xã hội chủ nghĩa cải tổ theo quan điểm của họ, tức là đi theo quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội - dân chủ (về thực chất đó là con đường phục hồi chủ nghĩa tư bản). Họ khuyến khích thành lập các Đảng Xã hội - dân chủ ở các nước xã hội chủ nghĩa. Trong Hội nghị ở Cairô (5-1990), ban lãnh đạo Quốc tế Xã hội chủ nghĩa đã công nhận một số Đảng Xã hội - dân chủ mới thành lập ở các nước Cộng hòa Dân chủ Đức, Tiệp Khắc, Bungari…là thành viên chính thức, đồng thời họ “vui mừng” trước những biến đổi ở Đông Âu và Trung Âu. Họ tích cực tham gia vào các cuộc vận động bầu cử thời gian qua ở các nước xã hội chủ nghĩa và nhiệt thành ủng hộ các Đảng Xã hội- dân chủ ở các nước này tranh thủ quần chúng và nhanh chóng trở thành lực lượng đối lập với các Đảng Cộng sản và công nhân. Đối với các nước đang phát triển, Quốc tế Xã hội chủ nghĩa thay đổi chiến lược, tích cực tạo mọi điều kiện để thâm nhập vào các nước Á, Phi, Mĩ Latinh. Vấn đề “thế giới thứ ba” đang trở thành đề tài mà Quốc tế quan tâm trong các đại hội gần đây. Ngày 4 và 5-3-1970, Quốc tế Xã hội chủ nghĩa đã thành lập Văn phòng Liên lạc với châu Á, châu Đại Dương, và chọn Xingapo là trụ sở đặt văn phòng đó. Từ 1972, Văn phòng này đổi tên thành Tổ chức Xã hội chủ nghĩa châu Á - Thái Bình Dương (Asia Pacific Socialist Organisation, viết tắt là APSO). Thành viên của APSO khu vực này gồm các Đảng Xã hội - dân chủ các nước Ôxtrâylia, Ixraen, Nhật Bản, Malaixia, Niu Dilân, Hàn Quốc. Từ l-3-1979, Quốc tế Xã hội chủ nghĩa lập một Ban thư kí khu vực châu Á - Thái Bình Dương, đặt trụ sở thường trực ở Tôkiô làm chức năng Văn phòng liên lạc. Hội nghị lần thứ nhất của Tổ chức Xã hội chủ nghĩa châu Á - Thái Bình Dương họp 2-1991 tại Xitnây đã đề ra phương hướng tăng cường hoạt động hơn nữa của các Đảng Xã hội - dân chủ tại đây và bầu B. Rowling, đại biểu Niu Dilân làm Chủ tịch.

Tháng 2-1981, 9 đoàn đại biểu chính thức và 6 đoàn đại biểu là quan sát viên các nước châu Phi đã họp hội nghị ở Tuynidi để thành lập Quốc tế Xã hội chủ nghĩa châu Phi. Đại biểu Xênêgan (L.S Senghor) được bầu làm Chủ tịch, đại biểu Tuynidi (Mungi AI. Kooli) được cử làm Tổng thư kí của tổ chức Quốc tế Xã hội chủ nghĩa châu Phi.

Quốc tế Xã hội chủ nghĩa đã phối hợp với Đảng Hành động dân chủ ở Vênêxuêla tổ chức Hội nghị Caracát vào tháng 5-1976. Tham dự Hội nghị có 30 đoàn đại biểu các Đảng Xã hội - dân chủ ở 30 nước ( bao gồm các đoàn đại biểu Đảng Xã hội - dân chủ ở châu Âu và 12 đảng thuộc xu hướng xã hội- dân chủ ở Mĩ Latinh). Qua hội nghị này, Quốc tế Xã hội chủ nghĩa mong muốn bắn một mũi tên trúng hai đích'': một – nhằm gạt bỏ ảnh hưởng của Đảng Cộng sản ở khu vực này để họ có thể dần dần thay thế, hai - nhằm cộng tác với các chính đảng tư sản có điều kiện trở thành những đảng nắm chính quyền ở đây để thu hút họ vào trào lưu xã hội – dân chủ.

VIII. Những nét chung về phong trào cộng sản quốc tế sau sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu

Sau sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, một thời kỳ mới của phong trào cộng sản quốc tế đã đến với nhiều thử thách, khó khăn và thời cơ thuận lợi mới.

Triển vọng và tương lai của phong trào cộng sản trong những năm tới tùy thuộc vào quá trình ''phục sinh'', đổi mới của các Đảng Cộng sản đang diễn ra hiện nay.

Tình hình, xu hướng và quá trình phát triển của phong trào cộng sản quốc tế của các Đảng Cộng sản sau năm 1991 đến nay rất đa dạng, phức tạp, đan xen giữa những hiện tượng tiêu cực và tích cực, không đồng đều cả về thời gian, quy mô và mức độ.

l. Phong trào cộng sản và cánh tả ở Liên Xô cũ và Đông Âu bước đầu phục hồi

Những biến động trong thời kì 1989 - 1991 ở Liên Xô và Đông đã giáng một đòn nặng nề và làm tổn thất lớn đến phong trào xã hội chủ nghĩa và phong trào cộng sản quốc tế: các Đảng Cộng sản cầm quyền ở các nước Đông Âu cũ hoàn toàn mất hết quyền lực. Đảng Cộng sản các nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ phần nhiều bị cấm, có đảng bị tuyên bố là phi pháp, có đảng bị đình chỉ hoạt động, có đảng trong nội bộ lại bất đồng nhau, phe phái nổi lên, số lượng đảng viên giảm mạnh, phiếu bầu giảm hẳn; có đảng chỉ tồn tại trên danh nghĩa… Có thể nói rằng, toàn bộ phong trào cộng sản ở khu vực này đã rơi xuống vực sâu kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai trở lại đây. Mấy năm gần đây, những người cộng sản kiên trì đấu tranh làm cho phong trào cộng sản bắt đầu bước vào thời kì phục hồi.

Phong trào cộng sản cánh tả ở Liên Xô cũ

Trong con mắt của giai cấp tư sản phương Tây, các Đảng Cộng sản đã tan rã. Nhưng ở khu vực Liên Xô cũ, mặc dù chủ nghĩa xã hội đã bị thất bại, lí tưởng cộng sản, lí tưởng xã hội chủ nghĩa vẫn chưa bị phai mờ, mà đang dần dần được phục hồi trên mảnh đất này. Điều đó được biểu hiện ở những điểm sau đây:

Thứ nhất, các Đảng Cộng sản đã khôi phục được địa vị hợp pháp và giành được những thành tích rất lớn trong đấu tranh nghị viện, như những đảng viên Đảng Cộng sản Nga với khi phách dũng cảm đã khởi tố “lệnh cấm Đảng Cộng sản” của Tổng thống, làm cho Đảng Cộng sản Liên bang Nga bị đình chỉ hoạt động nửa năm, lại khôi phục được địa vị hợp pháp vào tháng 2-1993. Tháng 8-1991, tại Bêlarút, Đảng của những người cộng sản Bêlarút được thành lập. Đảng thành lập Mặt trận cánh tả và Đoàn thanh niên cộng sản Đảng đấu tranh đòi bãi bỏ lệnh cấm Đảng Cộng sản và buộc Quốc hội nước này phải bỏ lệnh này vào giữa năm 1993. Tại Ucraina, đến tháng l0 -1993, những người cộng sản đã đấu tranh đạt được việc xóa bỏ lệnh cấm hoạt động của Đảng Cộng sản. Sau đó là Đảng Cộng sản Mônđôva cũng khôi phục lại vị trí hợp pháp. Các Đảng đó đã tổng kết những nguyên nhân và bài học về việc Liên Xô bị tan rã, căn cứ vào tình hình của nước mình đã đề ra những nguyên tắc và mục tiêu của mình, định ra cương lĩnh mới, bầu người lãnh đạo mới và tích cực tham gia các hoạt động chính trị. Trong thời gian không dài sau khi khôi phục lại được địa vị hợp pháp, Đảng Cộng sản Liên bang Nga đã được xác lập và phát triển về tổ chức. Hiện nay đã có hơn 60 vạn đảng viên, hơn 2 vạn tổ chức cơ sở , trở thành chính đảng lớn ở Nga, ảnh hưởng của nó ngày càng tăng. Trong cuộc bầu cử nghị viện Nga vào tháng 1-1993, với tỉ lệ 12,35% số phiếu được bầu, Đảng đã giành được 65 ghế trong Đuma quốc gia và lại nổi lên trên diễn đàn chính trị. Đảng Cộng sản Ucraina với 14 vạn đảng viên, sau khi khôi phục lại được vị trí hợp pháp (10-1993), Đảng đã giành được 86 ghế (trong tống số 338 ghế nghị sĩ) trong cuộc bầu cử vào nghị viện mới của Ucraina vào tháng 3-1994, trở thành đảng đoàn nghị sĩ lớn nhất trong nghị viện. Đảng đã cùng với Đảng Xã hội và Đảng Nông dân lập thành Mặt trận thống nhất cánh tả, phản đối chính phủ cải cách kinh tế cấp tiến. Những người đồng minh cánh tả trong nghị viện đã cản trở kế hoạch tư hữu hóa của nhà nước và trong hàng loạt hoạt động chính trị đã tỏ rõ sức mạnh của mình.

Thứ hai, sau khi Đảng Cộng sản Liên Xô (cũ) bị cấm và bị tịch thu tài sản (vào 8-1991), có một số chính đảng và tổ chức mới lấy chủ nghĩa xã hội làm phương hướng xuất hiện và phát triển. Tại Acmênia,Đại hội bất thường (8-1991) đã tuyên bố giải tán Đảng Cộng sản. Song, một số đảng viên, đứng đầu là Bí thư thành ủy Êrêvan - Bađalian đã phục hồi Đảng Cộng sản Acmênia. Đảng Cộng sản phục hồi là một trong 4 đảng lớn của đất nước. Trong Đại hội lần thứ 31 (8-1994), Đảng Cộng sản Acmênia đã thông qua Cương lĩnh và Điều lệ, nêu rõ mục tiêu là củng cố nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần, khôi phục chính quyền Xô viết, phục hồi Liên bang Xô viết trên cơ sở mới.

Ở Adécbaigian, Đảng Cộng sản tuyên bố tự giải tán vào tháng 8-1991. Một số đảng viên cũ lập ra Đảng Xã hội chủ nghĩa và một số lực lượng khác khôi phục lại Đảng Cộng sản, khôi phục lại con đường xã hội chủ nghĩa và Liên bang Xô viết trên cơ sở mới. Đảng Cộng sản mới khôi phục có 60.000 đảng viên.

Tại Grudia, phong trào cộng sản bị chia rẽ thành nhiều đảng .Vùng Ápkhadia có Đảng Cộng sản riêng, tuyên bố đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Ở Grudia còn xuất hiện các đảng XHCN, Liên đoàn cộng sản. Gần đây các tổ chức cộng sản và xã hội chủ nghĩa hợp thành Đảng Cộng sản thống nhất Grudia. Đảng này có 132.000 đảng viên, hoạt động ở 77 (trong số 86) khu vực của đất nước.

Ở vùng Ban Tích, phong trào cộng sản gặp nhiều khó khăn. Từ đầu 1990,ở các nước này có hai Đảng Cộng sản: một theo lập trường của Đảng Cộng sản Liên Xô và một theo lập trường dân tộc chủ nghĩa. Các đảng theo lập trường của Đảng Cộng sản Liên Xô bị cấm hoạt động, còn những đảng theo lập trường dân tộc chủ nghĩa thì chuyển thành Đảng Xã hội – dân chủ.

Tại Bêlarút, Đảng Cộng sản Bêlarút đã chủ trương đưa đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, phục hồi liên bang trên cơ sở mới.

Hiện nay chỉ riêng ở Nga đã có 7, 8 đảng hoặc tổ chức lấy chủ nghĩa xã hội làm phương hướng như: Đảng Công nhân cộng sản Nga (cuối 1991), có 60.000 đảng viên chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn; Đảng Cộng sản (b) Nga ra đời ở Lêningrát từ Hội những người bảo vệ chủ nghĩa Lênin, khởi xướng cộng sản chủ nghĩa với hơn 10.000 đảng viên; đảng của những người cộng sản Nga, có 5000 đảng viên ở 46/89 khu vực của Liên bang Nga, chủ trương phục hồi chế độ XHCN và Nhà nước Liên Xô qua nhiều giai đoạn; Liên đoàn những người cộng sản với hơn 10.000 đảng viên có các quan điểm, chủ trương khôi phục lại Liên Xô và Đảng Cộng sản Liên Xô, Liên đoàn các Đảng Cộng sản – Đảng Cộng sản Liên Xô có mục tiêu khôi phục lại chủ nghĩa xã hội và Liên Xô cũ, Liên đoàn này đã tổ chức đại hôi XXX vào tháng 6-1995. Đảng Cộng sản Liên bang Nga đã kiên trì đấu tranh chống chính quyền Enxin nhằm xóa lệnh cấm Đảng Cộng sản hoạt động. Đảng chủ trương đưa nước Nga đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, dần dần khôi phục Liên Xô trên cơ sở mới. Ngoài ra, ở Liên bang Nga còn có một số phong trào và đảng phái cánh tả xuất xứ từ Đảng Cộng sản Liên Xô, như Đảng Xã hội chủ nghĩa mang nhiều tính chất xã hội - dân chủ, Đảng Dân chủ Nga - đảng ủng hộ các cuộc cải cách triệt để.

Thứ ba, các Đảng Cộng sản hay các tổ chức cộng sản ở Nga và trên mảnh đất Liên Xô trước đây đều có nguyện vọng là hướng tới liên hiệp. Các tổ chức Đảng Cộng sản đó tuy rằng đều tuyên bố lấy CNXH làm mục tiêu, nhưng về cương lĩnh, đường lối, phương châm, chính sách và sách lược thì mỗi nơi một khác, thậm chí có sự khác nhau lớn. Họ tác chiến đơn độc, lực lượng phân tán ảnh hưởng tới việc giành nhiều thắng lợi hơn nữa trong đấu tranh. Các tổ chức Đảng Cộng sản đều cảm thấy sâu sắc sự cần thiết phải liên hợp thành một Đảng Cộng sản thống nhất. Ngay từ tháng 8-1993, theo đề xướng của Đảng Công nhân cộng sản Nga tại Masalva đã tổ chức hội nghị các chính đảng và tổ chức có khuynh hướng cộng sản ở các khu vực thuộc Liên bang Nga, nhưng chưa thu được kết quả như dự kiến. Tháng 1-1994, 5 tổ chức Đảng Cộng sản ở Nga đã tổ chức thành Liên minh cộng sản Nga. Tháng 5-1994, ở ngoại ô Matxcơva đã tiến hành cuộc gặp mặt không công khai của đại biểu các Đảng Cộng sản ở các nước được thành lập trên lãnh thổ Liên Xô trước đây thông qua nghị quyết tăng cường sự nhất trí của những người cộng sản, đề ra mục tiêu chung của Đảng Cộng sản ở các nước trong lãnh thổ Liên Xô cũ là: “Vì nhân loại” và “phản đối chủ nghĩa tư bản ngóc đầu dậy, khôi phục con đường phát triển CNXH trong các nước Cộng hòa thuộc Liên Xô cũ, ngăn chặn xung đột sắc tộc, khôi phục Liên Xô, xây dựng lại Đảng Cộng sản thống nhất của các nước cộng hòa theo sự khôi phục Liên Xô, làm cho nó liên hợp thành Đảng Cộng sản thống nhất''. Nguyện vọng và tiến trình hợp nhất này sẽ có lợi cho sự lớn mạnh của lực lượng Đảng Cộng sản ở khu vực Liên Xô cũ, giúp cho phong trào CNXH ở châu Âu thoát khỏi thoái trào.

Nếu như ở khu vực châu Âu thuộc Liên Xô cũ, các Đảng Cộng sản bắt đầu bước ra khỏi vực sâu thì ở khu vực châu Á cũng thuộc Liên Xô trước kia, trong thoái trào các Đảng Cộng sản lặng lẽ phục hưng và xây dựng lại.

Sau khi Đảng Cộng sản Liên Xô (8-1991), ở một số nước cộng hoà Trung Á, các Đảng Cộng sản hoặc bị giải tán hoặc tiến hành đại hội, tách khỏi Đảng Cộng sản Liên Xô, thay đổi tên đảng và cương lĩnh. Nhưng ở đây, ảnh hưởng của tư tưởng chủ nghĩa xã hội còn tương đối sâu đậm, các đảng viên cộng sản nhanh chóng chấn chỉnh lại, phục hưng và xây dựng lại tổ chức đảng của mình. Ở Udơbêkixtan, Đảng Cộng sản (do Kơrimốp cầm đầu) đổi tên thành Đảng Dân chủ nhân dân. Đảng này có 360 000 đảng viên cũ của Đảng Cộng sản Liên Xô, giữ nguyên vị trí cầm quyền.

Trong điều lệ và cương lĩnh của đảng không còn đề cập đến ''chuyên chính vô sản'' và nguyên tắc “tập trung dân chủ”. Tại Tuốcmêni, Đảng Cộng sản cũ đổi tên là Đảng Dân chủ. Đảng này ở vị trí cầm quyền, tình hình chính trị, xã hội ở đây ổn định. Tuy vậy, ở đây vẫn có một lực lượng nhỏ muốn khôi phục lại Đảng Cộng sản. Tháng 9-1991, Đảng Cộng sản Tátgikixtan thông qua nghị quyết đổi tên Đảng Cộng sản thành Đảng Xã hội chủ nghĩa, nhưng đến tháng 1-1992, lại thông qua nghị quyết khôi phục lại tên gọi Đảng Cộng sản trước đây và tiếp tục giữ nguyên tính chất và mục tiêu của Đảng Cộng sản. Đây là Đảng Cộng sản duy nhất trong lãnh thổ Liên Xô cũ giữ tương đối nguyên vẹn tổ chức và kiên trì tính chất, mục tiêu trước đây; đảng này hiện có 7 vạn đảng viên và có ảnh hưởng nhất định trong sinh hoạt chính trị - kinh tế của đất nước.

Tại Cadắctan, Tổng thống Nadabaep cấm Đảng Cộng sản hoạt động và tịch thu tài sản của Đảng. Môt số người lập ra Đảng Xã hội chủ nghĩa Cadắcxtan gồm 60.000 đảng viên thuộc Đảng Cộng sản cũ. Đảng này có nhiều đảng viên nắm nhiều chức vụ chính quyền quan trọng, được coi là đảng cầm quyền. Tổng thống Cadắcxtan không tham gia đảng phái nào. Ngoài Đảng XHCN cầm quyền ở Cadắcxtan, những lực lượng cộng sản đã tập hợp lại khôi phụcc Đảng Cộng sản gồm 50 000 đảng viên. Đảng này từng 3 lần bị Bộ tư pháp Cadắcxtan cự tuyệt ghi tên đăng kí. Nhưng Đảng Cộng sản Cadắcxtan đã kiên trì đấu tranh, nên đến tháng 3-1994, đã được công nhận là một chính đảng hợp pháp và ảnh hưởng trong xã hội dần dần được mở rộng.

Tại Cưrơgưxtan, Tổng thống và Chủ tịch Đảng Akaep, sau sự kiện 19-8-1991, đã tuyên bố nền độc lập của Cưrơgưxtan và tách khỏi Đảng Cộng sản Liên Xô. Cuối năm 1992, những người cộng sản ở đây đã phục hồi Đảng Cộng sản. Đảng mới này có khoảng 3 - 4 vạn đảng viên. Mục tiêu của Đảng là phục hồi chủ nghĩa xã hội và Liên bang Xô viết.

Phong trào cộng sản và cánh tả ở Đông Âu

Từ cuối 1989, các Đảng Cộng sản cầm quyền ở các nước XHCN Đông Âu đều thay đổi ban lãnh đạo, chiến lược, sách lược hoạt động; thay đổi cả đường lối, cương lĩnh và điều lệ. Một số đảng tuyên bố tự giải tán (ở Ba Lan, Anbani, Rumani), một số đảng thay đổi tên gọi (ở Bungari, Hunggari, Đông Đức, Nam Tư). Duy nhất ở Tiệp Khắc, trong thời gian bầu sau khi mất chính quyền, Đảng Cộng sản Tiệp Khắc vẫn giữ nguyên tên gọi. Sau những biến đổi này, nhất là sau khi mất chính quyền, số lượng đảng viên còn đứng trên lập trường cộng sản trước đây còn lại không nhiều. Những người cộng sản này không đồng ý với bất kì thay đổi nào và giữ nguyên các lập trường, quan điểm cũ, tự tuyên bố tái lập lại các Đảng Cộng sản.

Như vậy, saukhi các Đảng Cộng sản trước đâyy ''thay tên đổi cờ'',ở các nước Đông Âu xuất hiện một số Đảng Cộng sản và tổ chức lấy CNXH làm phương hướng tiến lên, như Liên đoàn những người Cộng sản Ba Lan với tên gọi ''vô sản'', Đảng Công nhân XHCN Hunggari. Đảng Cộng sản mới ở Nam Tư ... Những chính đảng và tổ chức này với lực lượng nhỏ bé và phát triển rất chậm chạp, tác dụng trong xã hội còn hạn chế, hoặc không có ảnh hưởng gì. Nhiệm vụ đặt ra cho các chính đảng đó là làm thế nào vừa để kiên trì chủ nghĩa Mác và CNXH lại vừa tự phát triển nhanh chóng.

Từ cuối năm 1993, các chính đảng cánh tả (được xây dựng trên cơ sở các Đảng Cộng sản trước đây) như Đảng Xã hội - dân chủ Ba Lan, Đảng XHCN Bungari, Đảng XHCN Hunggari, Đảng dân chủ cánh tả Xlôvakia v.v… đã bước đầu năm lại chính quyền ở Đông Đức, trong một cuộc bầu cử địa phương hồi tháng 6-1994, Đảng Xã hội - dân chủ ở một số thành phố và địa phương quan trọng đã giành được 1/3 số phiếu bầu, có mấy chục đảng viên đã giành được chức vụ ở địa phương. Tuy rằng họ nắm lại chính quyền, nhưng các Đảng Cộng sản và XHCN ở Đông Âu vẫn ở vào hoàn cảnh rất khó khăn trong bối cảnh hiện nay.

2. Phong trào cộng sản ở Tây Âu

Sau sư sụp đổ của chế đô XHCN ở Liên Xô và Đông Âu, hầu hết các Đảng Cộng sản ở Tây Âu đều có đại hội bất thường để định hướng lại tổ chức và hoạt động. Đa số các Đảng Cộng sản khẳng định trung thành với lí tưởng cộng sản và chủ nghĩa Mác, giữ nguyên bản sắc, tên gọi cũ của mình. Hầu hết các đảng đều điều chỉnh, thay đổi đường lối, mởrộng quan hệ quốc tế. Việc điều chỉnh đường lối phụ thuộc vào vị trí, năng lực, trình độ và truyền thống của các Đảng Cộng sản Italia, Pháp, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Anh v.v… có tư duy độc lập sáng tạo, đường lối thực tế, có truyền thống đấu tranh lâu dài, anh dũng. Do vậy, nhiều đảng trong số này có vai trò chính trị đáng kể trong nhiều thập niên trước và sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến nay.

Trước năm 1993, một số Đảng Cộng sản Tây Âu (và cả Cuba) cho rằng đổi mới của Việt Nam và cải cách của Trung Quốc là hữu khuynh, là từ bỏ chủ nghĩa xã hội. Song gần đây cả Cuba và các Đảng Cộng sản ở khu vực này thay đổi đánh giá, ủng hộ đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam. Những thành tựu đổi mới, cải cách của Việt Nam, Trung Quốc đã củng cố lòng tin của những người cộng sản trên thế giới và thúc đẩy họ điều chỉnh đường lối, chính sách...

Mấy năm gần đây, ảnh hưởng trong xã hội của các Đảng Cộng sản Tây Âu có phần được mở rộng, bước đầu ngăn chặn được tình trạng giảm sút số lượng đảng viên và phiếu bầu bị tụt. Trong tổng tuyển cử sau năm 1993, các đảng này đã giành được tỉ lệ ủng hộ cao hơn trước. Mặc dù trong hoàn cảnh khó khăn, Đảng Cộng sản Bồ Đào Nha vẫn giành được 9% ghế trong cuộc bầu cử Quốc hội năm 1993. Đảng Cộng sản Tây Ban Nha đứng về phía lực lượng cánh tả, thể hiện và bảo vệ lợi ích của người lao động. Đảng Cộng sản Pháp, vào đầu những năm 90, uy tín và ảnh hưởng vẫn ở mức độ như cũ – khoảng 10% cử tri ủng hộ Đảng Cộng sản mới thành lập lại ở Italia, Đảng Lao động Thụy Sĩ, v.v…cũng có uy tín cao hơn trước.

Nét đáng chú ý là các đảng đều thay đổi thế hệ lãnh đạo, những vị lãnh đạo lão thành có đức cao, danh vọng lớn như Mácxen - Tổng bí thư Đảng Cộng sản Pháp 22 năm liền, Cunhan - Tổng bí thư Đảng Cộng sản Bồ Đào Nha, 31 năm ở cương vị lãnh đạo, đã rút về tuyến sau và một lớp cán bộ có đủ tài đức, trẻ trung, sung sức được đưa vào các cương vị lãnh đạo quan trọng của Đảng, tăng cường sức chiến đấu của Đảng.

Mặt khác giữa các Đảng Cộng sản ở Tây Âu đã tăng cường liên hệ và trao đổi qua lại, xúc tiến đoàn kết và hợp tác. Từ khi Đông Âu biến động đến nay, một số Đảng Cộng sản ở Tây Âu đã nhiều lần tổ chức hội nghị gặp mặt, thông báo cho nhau tình hình của đảng mình và nước mình, trao đổi những kinh nghiệm đấu tranh trong mấy năm gần đây với nhau, nhấn mạnh từ nay về sau phải tăng cường hợp tác và đề nghị triệu tập hội nghị các Đảng Cộng sản châu Âu. Có thể nói rằng, phong trào XHCN của Tây Âu đã bước vào một giai đoạn phát triển mới.

3. Phong trào cộng sản ở các nước xã hội chủ nghĩa còn lại

Sự tác động của các sự kiện 1989 - 1991 ở Liên Xô và Đông Âu đối với các nước xã hội chủ nghĩa và các Đảng Cộng sản ở châu Á không nhiều bằng ở châu Âu. Trong các nước XHCN ở châu Á, ngoài việc Đảng Cộng sản Mông Cổ đã đổi tên, các Đảng Cộng sản cầm quyền ở các nước XHCN khác đều kiên quyết và thực hiện có hiệu quả việc chống lại chế độ đa đảng mà phương Tây hi vọng được thi hành rộng rãi. Các Đảng này kiên trì con đường phát triển chủ nghĩa xã hội, kiên trì kết hợp chủ nghĩa Mác với thực tiễn cụ thể của nước mình. Trên cơ sở tổng kết những bài học sâu sắc về sự thay đổi của Liên Xô và Đông Âu, mấy năm nay phong trào cộng sản và CNXH ở châu Á phát triển một cách lành mạnh.

Trong sự biến động to lớn ở Liên Xô và Đông Âu, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã bình tĩnh quan sát, ổn định đội hình, kịp thời đối phó, lãnh đạo nhân dân Trung Quốc kết hợp nguyên lí phổ biến của chủ nghĩa Mác với thực tiễn cụ thể của Trung Quốc hiện nay, đặc biệt là tổng kết những kinh nghiệm mới về xây dựng chủ nghĩa xã hội kể từ khi cải cách, mở cửa (1978) đến nay, kiên định con đường đi của mình, xây dựng CNXH mang màu sắc Trung Quốc. Chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc đã giành được những thành tựu to lớn làm mọi người phải chú ý, đang tỏ rõ cho thế giới ánh sáng hi vọng và con đường phục hưng của CNXH.

Những biến động lớn của Liên Xô và Đông Âu có tác động mạnh đối với Việt Nam, đặc biệt là về kinh tế, làm cho Việt Nam lâm vào hoàn cảnh khó khăn. Từ cuối những năm 80, đặc biệt là vào đầu những năm 90, Đảng Cộng sản Việt Nam quán triệt đường lối chung, do Đại hội Đảng lần thứ VII (6-1991) đề ra, lấy xây dựng kinh tế làm trung tâm, kiên trì sự lãnh đạo của Đảng, kiên trì định hướng XHCN, kiên trì chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên trì chuyên chính vô sản, kết hợp giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế, tiến hành ngăn chặn có hiệu quả đối với những thế lực mưu toan thực hiện “diễn biến hoà bình”. Vừa chống lại sức ép từ bên ngoài, Đảng Cộng sản Việt Nam vừa tiến hành ''mở cửa'' và “đổi mới” có hiệu quả, đã thu được nhiều thắng lợi to lớn trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, những khó khăn gây trở ngại cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam vẫn còn nhiều, đòi hỏi Đảng Cộng sản Việt Nam phải đề ra những biện pháp có hiệu quả để giải quyết. Tóm lai, sự phát triển CNXH ở Việt Nam dù còn nhiều khó khăn trở ngại, nhưng có đường lối đúng, xu thế tốt và có tiền đồ.

Triều Tiên trên cơ sở tổng kết sự biến động mạnh mẽ của Liên Xô và Đông Âu để chống lại sức ép diễn biến hòa bình của phương Tây, kiên định giữ vững sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, kiên trì con đường XHCN. Trong lĩnh vực kinh tế, ở mức độ nhất định, Triều Tiên đã tiến hành cải cách, ''mở cửa'' và thành lập khu mậu dịch tự do.

Ở Cuba, trong thời gian gần đây Đảng Cộng sản Cuba đã thay đổi một số quan điểm trước đây của mình về CNXH và xây dựng CNXH. Đảng Cộng sản Cuba, từ cuối năm 1994, đa chấp nhận tư tưởng cài cách kinh tế, bỏ “ngăn sông, cấm chợ”, kêu gọi đầu tư nước ngoài, chuyển đổi tự do tiền tệ…Song sự chậm trễ từ bỏ mô hình CNXH cũ đã làm cho tình hình kinh tế - xã hội ở Cuba còn nhiều khó khăn, phức tạp.

Có thể nói rằng, phong trào cộng sản quốc tế từ sau khi chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu sụp đổ đã có nhiều dấu hiệu phục hồi và đang lấy lại phong độ trước đây trên cơ sở rút kinh nghiệm từ những thất bại của các Đảng Cộng sản ở nhiều nước, nhất là những đảng cầm quyền ở Liên Xô và Đông Âu trước đây. Trừ những Đảng Cộng sản đang cầm quyền ở các nước Trung Quốc, Việt Nam, CHDCND Triều Tiên, Cuba – đang đổi mới trong lãnh đạo, trưởng thành về nhiều mặt, còn các Đảng Cộng sản ở khu vực Liên Xô và Đông Âu đang dần dần phục hồi nhưng lực lượng còn nhỏ bé, để có được vai trò như xưa là còn cả một chặng đường dài. Ở khu vực này, phần nhiều Đảng Cộng sản cũ đã thay tên, đổi cờ, chuyển sang lập trường xã hội – dân chủ, nhưng trên mức độ nào đó còn có quan điểm gần với những người cộng sản và đứng trong liên minh cánh tả, nắm chính quyền thu được nhiều thắng lợi trong đấu tranh nghị viện, có nhiều cử tri (như trường hợp của Ba Lan trong cuộc bầu cử Tổng thống tháng 11 – 1995). Các Đảng Cộng sản Tây Âu hầu như vẫn giữ nguyên tên, cờ của mình song đã có nhiều thay đổi chiến lược, sách lược trên cơ sở những điều kiện “mở cửa” quốc tế và trong nước.

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét