Nguyễn Văn Huy
Tiến sĩ Dân tộc học, Giáo sư phụ trách Khoa Các Dân tộc Ðông Nam Á
tại Ðại học Paris
II. Người Thượng và những phong trào phản kháng dưới
thời Pháp thuộc
Từ giữa thế kỷ 16 người Việt bắt đầu tiếp xúc giáo lý đạo Công
giáo, số người theo đạo càng ngày càng đông, nhiều họ đạo lớn được thành lập.
Nhưng từ thế kỷ 19 trở về sau, đạo Công giáo bị bách hại, phong trào tìm đường
lên cao nguyên lánh nạn trở nên mạnh mẽ, cộng đồng người Thượng qua đó đã được
biết đến.
Sự xâm nhập của người Pháp, và của người Kinh sau này, vào không
gian sinh tồn của người Thượng là tiền đề của những phong trào hợp tác hay phản
kháng của người Thượng.
Quan hệ với các giáo sĩ Pháp
Tại Việt Nam, người Thượng đã được các giáo sĩ phương Tây biết đến
từ thế kỷ 17. Năm 1621, giáo sĩ Borri gọi chung những nhóm dân cư phía Bắc Nam
Phần là Kemoy (Kẻ Mọi). Giáo sĩ Marini Romain đề cập tới các vua Hỏa Xá và Thủy
Xá (người Djarai) từ 1646. Năm 1651, giáo sĩ Alexandre de Rhodes xác nhận xứ
Rumoi (Rú Mọi) nằm ở giữa Lào và Annam. Trong thế kỷ 18, giáo sĩ João de
Loureiro xuất bản cuốn De nigris Moi et Champanensibus (Người Mọi đen và
Champa); giáo sĩ De La Bissachère lội ngược sông Mékong lên phía Bắc và khám
phá các nhóm Thượng sinh sống dọc hai bờ sông. Năm 1765, giáo sĩ Pigues lên đến
thượng nguồn sông Prek Chlong (Kampuchea) và tiếp xúc với các nhóm Stieng,
Proue, Queraie, Penong… rồi trở về không. Năm 1770, giáo sĩ Juguet vào Prek
Chlong giảng đạo cho người Stieng rồi chết vì kiệt sức (1774). Tháng 5-1775,
giáo sĩ Faulet thành lập họ đạo Chlong rồi cũng chết vì bệnh sốt rét rừng
(1776). Sang thế kỷ 19, những hiểu biết về Tây Nguyên rõ ràng dần; khi thiết
lập Ðại Quốc Họa Ðồ năm 1838, giáo sĩ Taberd dùng chữ mọi để chỉ những nhóm dân
sinh sống trên cao nguyên Trường Sơn. Tuy vậy, những cố gắng này không có tiếp
nối.
Phải chờ đến thời Tự Ðức, việc cấm đạo trở nên dữ dội ở đồng bằng, cố gắng tìm đường lên cao nguyên mới được hồi sinh. Tại Tây Nam Phần, năm 1857, giám mục Lefèbvre cho người vào nơi sinh trú của người Stieng, phía Tây Bắc Gia Ðịnh, tìm nơi trú ẩn và năm 1861, giáo sĩ Azémar thành lập được họ đạo Brơlam (Bình Long) nhưng bị Pou Kombo (một lãnh tụ Khmer) đốt năm 1867. Giáo sĩ Vuillaume, khi trốn các cuộc lùng bắt đạo tại Phan Rang năm 1865, đã chạy lên cao nguyên Di Linh sinh sống với người Mạ và Sré.
Nhưng sự khám phá Tây Nguyên và người Thượng chỉ quy mô hóa từ
giữa thế kỷ 19. Tại Trung phần, năm 1847, giám mục cai quản giáo phận Ðông Nam
phần tại Bình Ðịnh, Etienne Cuénot cử ông Nguyễn Do, một tín đồ người Kinh, đi
từ Trạm Gò đến An Khê vào lãnh thổ người Djarai Hadrong. Năm 1850, Nguyễn Do
dẫn bốn giáo sĩ Pháp (Combes, Fontaine, Dourisboure, Besombes) vào nơi cư trú
của người Bahnar, Rengao, Sedang và thiết lập các họ đạo tại Kon Xolang, Kon
Koxam và Kon Rohai. Khi về đồng bằng, mỗi phái đoàn vẽ lại bản đồ và ghi chú
chi tiết phong tục tập quán của từng nhóm sắc tộc đã tiếp xúc. Ðó là những tài
liệu về cao nguyên miền Trung chưa từng được biết. (Năm 1776, khi vào Nam kiểm
kê, Lê Quí Ðôn có ghi lại một số quan hệ giữa các vua Hỏa Xá và Thủy Xá với
triều đình xứ Ðàng Trong, nhưng những mô tả này chỉ dựa trên lời thuật chứ
không do giao tiếp trực tiếp).
Trong thời kỳ này người Sedang, Djarai và Stieng còn rất hiếu
động, họ thường đánh bắt người Bahnar Reungao, Sedang Halang và Mnong Bhiet bán
làm nô lệ cho người Thái và người Lào. Năm 1862, nhân bệnh đậu mùa làm chết
nhiều người trên cao nguyên, các thầy phù thủy Thượng cho rằng sự hiện diện của
các giáo sĩ Pháp là nguyên nhân của tai ương và kêu gọi dân chúng nổi lên đánh
đuổi. Khoảng 400 quân Sedang từ phía Bắc tràn xuống tấn công các làng công giáo
Bahnar. Các bộ lạc Djarai từ phía Nam sông Bla cũng tiến lên chiếm đóng khu vực
canh tác của người Bahnar. Năm 1871, một đàn châu chấu bay đến phá hoại tất cả
mùa màng của người Thượng gây ra nạn đói, các tù trưởng Djarai và Sédang lại hô
hào dân chúng nổi lên đốt phá các làng đạo Bahnar.
Cũng nên biết Bahnar là nhóm sắc tộc đầu tiên, sau người Kinh, có
chữ viết dựa theo mẫu tự la-tinh do các giáo sĩ dòng Thừa Sai soạn năm 1861.
Trước sự đe dọa này, các giáo sĩ Pháp giúp người Bahnar chống trả lại và còn
thành lập một đội võ trang gồm 1.200 người năm 1883 để đánh trả lại những cuộc
tấn công của các nhóm khác.
Sự hiện diện của các giáo sĩ Công giáo làm thay đổi hẳn tương quan
quyền lực trên Tây Nguyên. Người Bahnar trước kia là nạn nhân của người Djarai
và Sedang nay biết tự vệ hữu hiệu hơn. Thêm vào đó, các giáo sĩ Kinh còn dạy
cho người Bahnar cách trồng lúa nước, bắp, cây bông gòn và nghề chăn nuôi (heo,
bò, trâu, ngựa, gà, vịt). Ðời sống của người Bahnar nhờ đó đã được cải thiện
hơn, không bao lâu sau dân số Bahnar tăng nhanh và trở thành một nhóm hùng
mạnh.
Ðầu năm 1888, toàn quyền Constans và tổng thư ký Klobukowski cử
David Mayréna (một tay phiêu lưu khôn ngoan và gan dạ) lên Attopeu tìm vàng.
Mayréna được các giáo sĩ Pháp giúp đỡ tận tình và nhờ tài bắn súng rất hay,
đánh kiếm rất giỏi đã chinh phục hầu hết các làng Sedang tại Dakto. Sau thành
công dễ dàng này, Mayréna thành lập vương quốc Sedangê ngày 3-6-1888, có hiến
pháp, có quốc kỳ và huy hiệu riêng. Mayréna tự xưng là êMarie Ðệ Nhất, vua
người Sedangê.
Không chịu thua, ngày 20-6-1888, các giáo sĩ Pháp cũng cho ra đời
Liên Bang Bahnar-Reungao-Sedang, phong một lãnh tụ Bahnar tên Krui làm tổng
thống Cộng Hòa Bahnarê. Liên bang mới này liên hiệp với vương quốc Sedang tuyên
chiến với người Djarai.
Danh tiếng của Mayréna đe dọa uy quyền của Xiêm La, lúc đó gần như
đặt trọn Tây Nguyên dưới quyền kiểm soát, và làm chính quyền thuộc địa Pháp tại
Ðông Dương lo ngại; cả hai tìm cách triệt hạ ảnh hưởng của Mayréna trên phần
đất này.
Nhân một chuyến du hành sang Châu Âu tìm hậu thuẫn tháng 1-1889,
Mayréna bị cấm trở về Ðông Dương và chết cô đơn trên một hòn đảo ngoài khơi
vịnh Thái Lan (tháng 11-1890). Tháng 3-1889, công sứ Quy Nhơn Guiomar lên
Kontum giải tán vương quốc Sedang và khuyên người Thượng gia nhập Liên bang
Bahnar-Rengao do Hội truyền giáo Kontum cai quản. Ðiều này không làm hài lòng
người Sedang, Djarai và Rhadé, họ rút vào rừng sâu tổ chức chống phá sự hiện
diện của Pháp. Kể từ đó cao nguyên miền Trung trở nên mất an ninh và chính
quyền thuộc địa Pháp thay mặt giáo hội Công giáo bảo vệ các làng đạo, đồng thời
mở rộng tầm kiểm soát trên khắp Tây Nguyên.
Chống phá sự xâm nhập của người Pháp
Mục tiêu chiến lược của Pháp trong thời kỳ này là loại trừ ảnh
hưởng của Xiêm La, mở rộng lãnh thổ về phía Tây, thiết lập vòng đai bảo vệ
quyền lợi lâu dài của Pháp tại Ðông Dương. Ðể thực hiện, chính quyền thuộc địa
Pháp tổ chức dọ thám các vùng đất lạ, đo đạc địa hình và ghi chép phong tục tập
quán của người Thượng; xây dựng hệ thống đồn bót và cơ quan hành chánh tiền
phong để cai trị và vô hiệu hóa sự chống đối của các nhóm Thượng bất phục
tùng.
Sự xâm nhập của quân đội Pháp vào sâu trong nội địa Ðông Dương,
nhất là sau khi đuổi quân Xiêm sang bên kia bờ hữu ngạn sông Mékong và thành
lập nước Lào dưới sự bảo hộ của Pháp tháng 10-1893, làm nổ bùng một phong trào
phản kháng dữ dội trên khắp cao nguyên, từ 1893 đến 1914.
Tại Nam Lào, năm 1901, Khomadan, một người Phù Thái đồng thời cũng
là thầy pháp, kêu gọi dân chúng nổi lên chống Pháp trên cao nguyên Boloven, từ
Oubon đến Bassac. Ðầu năm 1902, người Kha và Sedang giết đồn trưởng Henri tại
Nongpol, giết cai đội Sicre tại Kapeu, tấn công Savannakhet, bao vây Saravane.
Chính quyền thuộc địa Pháp phải cử nhiều đoàn quân chính quy lên Nam Lào tái
lập an ninh, nhưng quân của Khomadan cầm cự cho tới 1907 mới bị vô hiệu
hóa.
Tại Bình Trị Thiên, phong trào Cần Vương từ 1888 lôi kéo một số
khá đông người Thượng chống lại quân Pháp cho đến 1897.
Năm 1898, Pháp tiếp thu hệ thống phòng thủ cao nguyên của triều
Nguyễn (Sơn Phòng Trấn). Người Thượng trước kia được hưởng quy chế độc lập với
triều đình Huế nay bị đặt dưới quyền quản trị trực tiếp của Pháp đã đứng lên
chống lại. Tháng 6-1901, người Ktu tại A Sơ, A Dong và A Bạc tấn công đồn An
Ðiềm (Ðại Lộc, Quảng Nam) gây thương tích cho nhiều binh lính. Năm 1903, người
Hré do Tổng Ren và Tia Các cầm đầu đánh phá các đồn Mang Gia, Nước Vo và Nước
Dinh (Quảng Ngãi); tháng 4-1907 họ đánh phá Ðức Phổ, tháng 11 chiếm đồn Ðồng
Mít (Quảng Ngãi) và chỉ bị dẹp yên cuối năm 1910. Người Tà Ôi nổi lên sát hại
nhiều sĩ quan và binh lính Pháp trên thượng nguồn sông Sé Pouc (Quảng Trị và
Thừa Thiên) năm 1911.
Trên vùng đất giữa Attopeu và Kontum, từ 1900 đến 1910, người
Sedang chống phá dữ dội sự xâm nhập của quân Pháp vào xây dựng đường sá. Năm
1900, lãnh tụ Thăng Mậu dẫn quân Sedang tấn công các làng công giáo dọc hai bờ
sông Psi và Poko tại Kontum, gây thương tích cho nhiều binh lính Pháp. Từ tháng
5 đến tháng 6-1901, người Sedang tấn công đồn Psi, bắn trọng thương đồn trưởng
Robert. Những làng Công giáo khác trong khu vực (Dak Drei, Dakto và Krong Kno)
cũng bị đánh phá thường xuyên và chỉ tạm yên năm 1902 khi Pháp đem quân chủ lực
lên đánh dẹp. Năm 1904, họ tấn công nhiều đồn bót và làng xã dưới sự bảo trợ
của quân đội Pháp trong vùng. Tháng 2-1907, phong trào nổi dậy của người Sédang
tại Plei Beer bị dập tắt. Năm 1909, hai đồn Dak Sut và Dak To bị chiếm đóng,
linh mục Jules Vialleton quản hạt Kontum bị giết. Tháng 8-1910, quân Sedang
tràn vào Trà Mi, Trà Giác, Toumorong, Mang Buk, Mang Ri và Tiên Phước (Tây Nam
Quảng Nam), đánh phá rồi rút đi. Năm 1921, đồn Dak Pha phía Bắc Kontum bị tấn
công.
Tại Kontum, người Bahnar qua trung gian các giáo sĩ tỏ ra qui phục
hơn các nhóm khác, nhưng sau một thời gian bị bóc lột (làm sâu (corvée) không
công, các chủ đồn điền chiếm đất một cách quá đáng) và bị các bộ lạc Thượng
khác thù ghét, người Bahnar đã nổi lên chống lại. Tháng 1-1901, họ chiếm làng
Kon Chorah (An Khê, Bình Ðịnh) rồi rút về tử thủ tại làng Plei Bring gần Chợ
Ðồn. Tháng 1-1907, quân Pháp bị đẩy lui tại làng Kon Klot, viên giám đốc đồn
điền Delignon-Paris bị bắn chết và nhiều binh lính khác bị thương; phong trào
chống đối chỉ bị dẹp yên khi đại quân Pháp từ Bình Ðịnh lên, do cai đội
Sauvalle chỉ huy. Từ 1918, những đồn điền quanh An Khê bị người Bahnar Halakong
đánh phá thường xuyên và chỉ tạm yên năm 1922.
Người Djarai tại Pleiku đã chống trả dữ dội các cuộc hành quân của
Pháp từ cuối 1894 đến đầu 1897. Sau đó, từ 1902 đến 1904, họ tiếp tục chống trả
các cuộc hành quân khác của quân Pháp vào Pleiku và Kontum. Ngày 7-4-1904 viên
thanh tra Prosper Odend’hal bị vua Hỏa Xá Oi Ât giết; Vincillionni tiến vào An
Khê thành lập quận Cheo Reo, Oi Ât phải chạy lên thượng nguồn sông Ayun trốn.
Thời gian sau, viên trú sứ Darlac Bardin xây dựng các đồn Plei Tour và Chợ Ðồn,
đầu năm 1905, để canh chừng người Djarai. Tuy vậy những làng Công giáo vẫn
thường xuyên bị người Djarai tấn công, một số giáo dân Kinh được trang bị vũ
khí tối tân, tổ chức các cuộc hành quân trả thù những làng Djarai lân cận. Cuối
cùng đồn trưởng Chợ Ðồn, Renard, dàn xếp với hai lãnh tụ Tay (tù trưởng 21 làng
Djarai tại Pleiku) và Khun (tù trưởng 7 làng Djarai tại An Khê, hứa thôi truy
kích vua Hỏa Xá tình hình mới yên. Ngày 23-5-1905, 46 trưởng làng và 200 chiến
sĩ Djarai quanh An Khê làm lễ quy phục Pháp tại làng Plei Tay (nơi cư ngụ của
Tay, nay là Pleiku). Tuy vậy chính sách phân biệt đối xử của người Pháp trên
Tây Nguyên (ưu đãi người Bahnar) làm người Djarai bất mãn, từ 1906 đến 1909 họ
lại tổ chức tấn công các làng Công giáo quanh Pleiku, Plei Kuen, Plei Bong,
Plei Tour và Plei Rach. Tình hình chỉ tạm lắng yên trong hai năm và đến năm
1911 họ lại nổi dậy đánh phá An Khê.
Cộng đồng người Rhadé được biết đến năm 1894 khi phái đoàn bác sĩ
Yersin bị tấn công tại sông Poko bởi người Rhadé Pih. Từ sau ngày đó, cao
nguyên Darlac trở thành địa bàn thám hiểm chính của Pháp trên cao nguyên. Năm
1899, viên trú sứ hạt Attopeu, Bourgeois, thành lập đồn Bandon và chiêu dụ được
Phet Lasa, một lãnh tụ Lào tại Bandon (Bản Ðôn), và Khun Jonob, một lãnh tụ
Mnong trong vùng. Cả hai đã giúp Pháp thu phục các lãnh tụ Rhadé Kpa (Me Wal và
Me Kheune năm 1900) và nhiều lần đánh bại người Rhadé Pih do tù trưởng Ngeuh
lãnh đạo tại Ban Tour, Ban Trap và Ban Tieuah năm 1903. Trên thượng lưu sông
Năng, phụ lưu sông Ðà Rằng, năm 1901 quân Pháp bị người Rhadé Mdhur phục kích
tại làng A Mai (gần M’Drack và Cheo Reo) làm một sĩ quan bị thương nặng (trung
úy Péroux), quân Pháp chỉ làm chủ khu vực quanh Dak To. Năm 1905, Me Sao, một
lãnh tụ Rhadé Mdhur chiếm đồn Bandon, quân Pháp phải dời về Buôn Ma Thuột và
Bandon chỉ được giải tỏa năm 1907, khi Me Sao bị Henri Maitre đánh bại tại làng
Me Leap.
Trên cao nguyên miền Nam, cường độ những cuộc chống đối có phần
cao hơn miền Trung. Người Mnong và Stieng đã tỏ ra rất tích cực trong việc
chống lại sự xâm nhập vào không gian sinh tồn của họ.
Sự khám phá cao nguyên Lang Bian vào cuối thế kỷ 19 kích thích
phong trào xây nhà dựng cửa nghỉ mát tại Ðà Lạt. Nhiều đoàn thám hiểm được cử
đi khắp nơi đo đạc địa hình. Bất mãn trước chính sách bắt dân Thượng làm sâu
xây dựng đường sá quá đáng, đầu năm 1901 lãnh tụ Tre Lương Pe hô hào người Chil
và Lat tại Lang Bian nổi lên chống lại và gây thương tích cho viên chỉ huy
trưởng Canivey và nhiều binh lính khác, nhưng vì sức yếu thế cô phong trào bị
dẹp tan hai tuần sau đó.
Từ 1901 đến 1904, dưới sự lãnh đạo của Nơ Trang Long (Pou Trang
Long), một lãnh tụ Mnong Bhiet, người Stieng và Mnong đã chống trả dữ dội sự
xâm nhập và gây nhiều thiệt hại cho quân Pháp trên một địa bàn rộng lớn từ Bình
Long, Tây Ninh đến Kratié. Từ 1905 đến 1908, quân Pháp thành lập một hệ thống
đồn bót nối liền với nhau (Sré Lvi, Sré Ktum, Sré Onès, La Palkei, Le Rolland,
Snoul, Bù Ðăng, Bù Ðốp, An Bình, Bà Rá, Bà Ðen, Chứa Chan, Tà Lài, Bù Nông, Bù
Tiên, Bou Pou Sra, Bou Méra…) bao vây không gian sinh tồn của người Stieng và
Mnong chứ không dám tiến vào. Tháng 7-1914, Henri Maitre bị Nơ Trang Long giết,
người Thượng làm chủ toàn bộ khu vực Ba Biên Giới (Cambodge, Nam Kỳ và Trung
Kỳ) từ 1915 đến 1933. Rất nhiều sĩ quan Pháp và binh lính Khmer bị giết trong
khoảng thời gian này và cộng đồng người Thượng miền Nam bị đặt ra ngoài pháp
luật. Tháng 5-1935, Nơ Trang Long bị bắt và bị xử tử, phong trào chống Pháp tạm
lắng xuống.
Chính sách Thượng vụ của Pierre Pasquier
Ngày 30-7-1923, Pierre Pasquier, khâm sứ Pháp tại Huế, ban hành
chính sách Thượng vụ của Pháp trên cao nguyên (thông tư số 578-ca): cai trị
trực tiếp những vùng đã bình định, bao vây và cô lập những vùng chưa quy
phục.
Ðối với những vùng Thượng đã được bình định, Pháp cắt đứt quan hệ
giữa người Thượng với người ngoại quốc (Kinh, Khmer, Chăm, Lào, Hoa, Thái và
giáo hội Công giáo); tôn trọng phong tục tập quán của người Thượng; xây dựng
đường sá, trường học, chợ búa; cố định nơi cư trú, huấn luyện cách canh tác
trên đất bằng; ấn định số ngày làm sâu, khai thác và cấp đất cho các đồn điền
trồng cây công nghiệp; tuyển dụng binh lính, đào tạo nhân sự trung gian; lập
đồn bót, xây dựng cơ quan công quyền; đàn áp các phong trào nổi loạn và đòi tự
trị; tổ chức những buổi lễ truyền thống hàng năm nhận sự quy phục của người
Thượng.
Nói thì dễ nhưng làm rất khó, người Thượng chưa sẵn sàng hợp tác
với Pháp vì không muốn bị gò bó vào cuộc sống lệ thuộc. Thêm vào đó giáo hội
Công giáo bị loại ra khỏi mọi chương trình phát triển cao nguyên, quan hệ hợp
tác giữa các giáo sĩ và viên chức chính quyền trong việc mở mang cao nguyên gần
như không có. Giáo hội Công giáo đặt nặng chương trình giáo dục thần linh, văn
hóa và nhân đạo, trong khi chính quyền chú trọng vào việc đào tạo nhân sự trung
gian hơn là khai hóa người Thượng về mặt kinh tế và xã hội. Hậu quả là các giáo
sĩ chỉ lo cho người Bahnar và chính quyền Pháp chỉ giúp người Rhadé, các nhóm
khác tùy thuộc mức độ phục tùng mà nhận sự giúp đỡ.
Người Rhadé, vừa đông vừa có thể lực được giới chính giới Pháp
nhiệt tình nâng đỡ, đã trở thành nhóm ưu tú nhất trong cộng đồng người Thượng.
Người Djarai và Sedang, mặc dù cũng đông dân và thân thể cường tráng, nhưng
không được ưu đãi bằng vì trước kia đã chống lại người Pháp. Tuy vậy ba cộng
đồng lớn này là cột trụ chính trong chính sách Thượng vụ của Pháp trên cao
nguyên. Con cháu các nhân sĩ Rhadé, Djarai và Sedang trong làng được tuyển chọn
vào học các lớp huấn luyện văn hóa, y tế và quân sự để thay thế các bậc cha anh
và trở thành giai cấp trung gian giữa chính quyền Pháp và quần chúng Thượng.
Những thanh niên này còn được huấn luyện để nghi kỵ và thù ghét người Kinh và,
khi cần, cầm súng chống lại người Kinh. Quan hệ giữa người Kinh và người Thượng
trong giai đoạn này chính vì vậy rất là lạnh nhạt, đúng như người Pháp mong
muốn.
Năm 1932, tiểu đoàn chính quy lính Thượng (1er Bataillon des
Tirailleurs Montagnards du Sud Annam) đầu tiên được thành lập, gồm một đại đội
chỉ huy gồm toàn người Rhadé đóng ở Buôn Ma Thuột, một đại đội toàn người
Rhaựdé đóng ở Buôn Djen Drom, một đại đội toàn người Djarai đóng ở Pleiku và
một đại đội toàn người Sedang đóng ở Kontum. Tiểu đoàn này có nhiệm vụ phụ giúp
người Pháp đào tạo các tân binh Thượng được tuyển dụng sau này. Từ 1933 đến
1942, năm tiểu đoàn chính quy khác được thành lập để giúp Pháp bình định những
khu vực chưa quy phục, với tổng quân số 2.172 người gồm đủ mọi sắc tộc Thượng.
Bộ chỉ huy các lực lượng này do sĩ quan Pháp điều khiển, nhưng người Rhadé nắm
vai trò điều động, đóng tại Buôn Ma Thuột. Binh lính Thượng bị cấm mang vợ Việt
lên cao nguyên sinh sống sau khi mãn dịch.
Thập niên 1930 có lẽ là thập niên yên bình và hạnh phúc nhất của
người Thượng, Tây Nguyên phát triển với nhịp độ nhanh để bắt kịp đồng bằng.
Người Thượng được sinh hoạt và canh tác tự do theo phong tục và tập quán của
họ. Hệ thống đường bộ, phi đạo, nhà cửa, dinh thự, cơ sở hành chánh, trường học
được tu bổ và xây dựng thêm rất nhiều. Năm 1932, Pháp còn cho xây nhiều khám
lớn tại Buôn Ma Thuột, Dak Pek và Lao Bảo để giam giữ những tù nhân chính trị
gốc Kinh, trong đó nhiều cán bộ cách mạng của Việt Nam Quốc Dân Ðảng và Việt
Minh. Giáo hội Công giáo cũng nhân dịp xây thêm nhà thờ, tu viện, trường học và
cơ sở từ thiện để tăng cường sự hiện diện.
Hội Trồng trọt Pháp được thành lập năm 1930 để bảo vệ quyền lợi
các chủ đồn điền và đưa người Việt lên cao nguyên làm việc. Tuy vậy, đối với
người Việt, Tây Nguyên vẫn là vùng sơn lam chướng khí, ít người dám lên định
cư, nên sau khi mãn hạn hợp đồng (quân sự, hành chánh và kinh tế), di dân Việt
thường về lại đồng bằng sinh sống.
Việc cấp phát đất quá đáng cho các chủ đồn điền trên cao nguyên
khiến chính quyền Pháp tại mẫu quốc ra lệnh cho Ủy ban Guernut sang Ðông Dương
điều tra từ 1937 đến 1938, nhằm hạn chế việc đưa người Việt lên cao nguyên làm
việc, giới hạn diện tích cấp đất cho các công ty nông nghiệp lớn và thành
lập nhiều khu dự trữ dành cho người Thượng.
Giữa hai làn đạn
Từ sau thập niên 1940, cộng đồng người Thượng sống những ngày đen
tối. Cuộc sống tự do giữa thiên nhiên bị chấm dứt, người Thượng bị lôi cuốn vào
những tranh chấp mà họ không chủ động và còn kéo dài cho tới ngày nay.
Năm 1941, chính quyền thuộc địa Pháp buộc phải hợp tác với Nhật
quản trị Ðông Dương. Lợi dụng tư cách đồng minh với Nhật, tháng 5-1941 Thái Lan
xua quân qua sông Mékong chiếm lại những phần đất đã nhượng cho Pháp năm 1893
(Ðông-Bắc Cambodge và Nam Lào). Ngày 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp tại Ðông
Dương, toàn bộ nhân viên dân sự, quân đội và các chủ đồn điền Pháp bị bắt; một
số đơn vị quân sự Pháp trốn sang Lào và lên Vân Nam, trong đó có tiểu đoàn 4 và
5 Thượng.
Trên cao nguyên, quân đội Nhật kiểm soát trực tiếp binh lính
Thượng do Pháp đào tạo và toàn bộ hệ thống giao thông để chuyển vận người và vũ
khí. Một số làng Thượng được Nhật trang bị để dẫn họ di chuyển trong rừng sâu.
Khẩu hiệu Á Châu của người Á Châu của Nhật được một số trí thức Thượng hưởng
ứng, nhưng ngày 19-8-1945 giấc mơ này tan biến, Nhật đầu hàng phe đồng minh và
người Thượng bị lôi cuốn vào phong trào Việt Minh.
Sau cuộc đảo chánh ngày 9-3-1945 của Nhật, các tù nhân chính trị
gốc Kinh bị giam giữ trong các nhà giam được trả tự do, đa số về lại đồng bằng,
nhưng cán bộ Việt Minh đã ở lại vận động trí thức và binh sĩ Thượng theo họ
chống Pháp, với hứa hẹn quyền tự trị khi cách mạng thành công. Hai chữ tự trị
như có ma lực hấp dẫn người Thượng, họ hưởng ứng một cách tận tình. Không cần
một cố gắng nào, phong trào Việt Minh hốt trọn nhiệt tình của dân Thượng, nhất
là những thành phần ưu tú Rhadé và Djarai, mà Pháp đã tốn gần nửa thế kỷ mới
đào tạo được.
Nhân sĩ và binh lính Thượng theo Việt Minh hô hào dân chúng Thượng
chiếm đóng các cơ sở hành chánh và quân sự của Pháp do Nhật để lại và tham gia
những ủy ban hành chánh lâm thời (tên nhân vật Thượng được đề cập đến trong
giai đoạn này vì có liên quan đến những phong trào chống đối hay ủng hộ người
Kinh sau 1954):
– Thị xã Buôn Ma Thuột có các ông Y Ut Nie Buon Rit, Y Plo Eban, Y
Ngong Nie Kdam, Y Wang Nie Kdam, Y Tlam K’bour, Y Nue Buon Krong, Y Bih Aleo, Y
Blieng Hmok (tất cả là người Rhadé). Trung sĩ Y Sok Eban sau 16 ngày bị giam
giữa đã tuyên thệ trung thành với Việt Minh và được giao nhiệm vụ bảo vệ Buôn
Ma Thuột.
– Thị xã Pleiku có ông Rcom Thep (người Djarai).
– Thị xã Kontum có ông Trần Quang Tường, một người công giáo, làm
chủ tịch, và các ông Prem, Deppe (cả hai là người Bahnar). Ðại đa số người
Bahnar Công giáo không theo Việt Minh.
– Huyện Buôn Hô có các ông Y Wang Mlo Duon Du, Y John Nie Kdam và
Y Yon Ecam (tất cả là người Rhadé).
– Huyện Cheo Reo có các ông Nay Der, Nay Moul, Nay Phin, Rcom
Briu, Rcom Pioi, Rcom Brim, Siu Ken, Siu Nang, Ksor Ni và các bà Rcom H’dit,
Rcom H’trul (tất cả là người Djarai). Phụ cận Cheo Reo có các ông Rcom John tại
Buôn Sam và Kpa Yan tại Plei Kli.
– Huyện Tân Khai (tỉnh Ðồng Nai Thượng) trong thung lũng Ða Nhim,
có các ông Touneh Han Din, Touneh Han Tin, Ya Yu Sahau, Touprong Hiou, Touprong
Ya Ba, Bahnaria Ya Don (tất cả là người Churu).
Những người không theo Việt Minh và tình nghi trung thành với Pháp
đều bị xử tử. Đó là các ông Y Say Ktla, Y Lak Eban, Y Hong, Y Wan, Y Tum, Y
Blam, Y San, Y Tuk, Y Blol, Y Flak, Y Ho, Y Bung, Hiai, Sui, Gao, Duen, Blon,
Sa, Bok, That, Ky, Cecrec, Hny và rất nhiều viên chức Thượng khác. Nhiều người
phải trốn vào rừng sâu như các ông Y Kju, Y Kao, Y Ang, Touneh Han DÐang... chờ
Pháp đến giải vây.
Chính sách Thượng vụ của Thierry d’Argenlieu
Tháng 8-1945, đề đốc Thierry d’Argenlieu được cử làm cao ủy Ðông
Dương và tướng Leclerc làm chỉ huy trưởng lực lượng viễn chinh Pháp tái chiếm
lại Ðông Dương.
Ngay khi vừa đến Sài Gòn tháng 9-1945, Leclerc tung các binh đoàn
tinh nhuệ nhất của Pháp tái chiếm những tỉnh và thị xã tại đồng bằng trên tay
Việt Minh; tháng 6-1946 quân Pháp lần lượt chiếm lại những thành phố và thị xã
lớn trên cao nguyên miền Trung. Một số binh sĩ và công chức Thượng theo Việt
Minh đã ra quy hàng và được Pháp trọng dụng trở lại vì thiếu người, đó là
trường hợp các ông Y Sok Eban, Y Tuic Mlo Duon Du, Y Bih Aleo, Y Blieng Hmok,
Touprong Hiou, Touprong Ya Ba, Touneh Han Din, Ya Yu Sahau, Bahnaria Ya Don…
Chính trong giai đoạn này, giới lãnh đạo Thượng bị phân hóa, một số theo Pháp
và một số khác theo Việt Minh như các ông Y Ngong, Y Wang, Y Nue, Y Tlam, Phem,
Depp…
D’Argenlieu áp dụng triệt để chính sách chia để trị, ông cho thành
lập Liên bang Ðông Dương trong Liên Hiệp Pháp ngày 1-11-1945, Cộng hòa Nam Kỳ
ngày 25-5-1946 và Xứ Thượng Nam Ðông Dương (Pays Montagnard du Sud Indochinois)
ngày 27-5-1946. Xứ này gồm tất cả những vùng đất có đông người Thượng cư ngụ,
thủ đô ban đầu là Ðà Lạt, sau đó dời về Buôn Ma Thuột, ông Marcel Ner làm thụ
ủy. Ðể đánh dấu sự kiện trọng đại này, d’Argenlieu tổ chức một loạt lễ tuyên
thệ (quy tụ tất cả già làng, binh sĩ, nhân sĩ và trí thức Thượng trung thành
với Pháp) tại Buôn Ma Thuột, Ðà Lạt và Kontum (tháng 6 và tháng 8-1946).
D’Argenlieu tin rằng với sự ra đời của xứ Thượng này Pháp sẽ có tiếng nói mạnh
khi thảo luận với Việt Minh về việc thống nhất Việt Nam trên bàn các hội nghị
sơ bộ tại Ðà Lạt (từ 19-4 đến 11-5-1946) và tại Fontainebleau (tháng 7 và
8-1946). Trong hội nghị Ðà Lạt lần hai (8-1946), d’Argenlieu chỉ mời các phái
đoàn Nam Kỳ, Nam Trung Kỳ, Cambodge, Lào và Thượng; Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ
không được mời. Ðại diện phái đoàn Xứ Thượng Nam Ðông Dương có các ông Y Djac
Ayun, Touprong Hiou, Touneh Han Ðang… tham dự với tư cách quan sát viên. Nhưng
ngày 5-2-1947, d’Argenlieu bị triệu hồi về Pháp, Xứ Thượng Nam Dương chết
yểu.
Việt Minh cũng không chịu thua, tháng 1-1946 một đại hội dân tộc
được tổ chức tại Hà Nội, trong đó rất nhiều nhân sĩ Thượng được mời tham dự,
trong đó có các ông Y Ngong Nie Kdam, Y Wang Mlo Duon Du, Nay Der, Nay Phin.
Nhiều người khác được cử vào Quốc hội Việt Minh tháng 3-1946: các ông Y John
Nie Kdam, Y Klam, Y Thang Nie Kdam, Y Yan Phong, Y Pe, Y Hing, Y Ni, Rcom Briu,
Rcom H’trul, Huk… Buổi họp Quốc hội khóa 2, ngày 29-10-1946, các đại diện
Thượng (các ông Y John Nie Kdam, Y Wang Mlo Duon Du, Nay Phin, Y Ngong Nie Kdam
và Y Ut Nie Buon Rit) chính thức được hứa hẹn quy chế tự trị dành cho người
Thượng. Sự kiện này làm các cán bộ Thượng hài lòng và nhiệt thành hợp tác với
Việt Minh chống Pháp. Tháng 12-1946, lữ đoàn lính Thượng gồm nhiều sắc tộc được
thành lập do các sĩ quan Rhadé chỉ huy. Từ 1947 đến 1954, người Thượng theo
Việt Minh gây nhiều thiệt hại cho quân Pháp trên cao nguyên.
Chính sách Thượng vụ dưới thời Bảo Ðại
Ðể đối phó với tình thế mới, chính quyền thuộc địa Pháp sử dụng
giải pháp Bảo Ðại và thành lập thêm nhiều xứ Thượng tự trị thân Pháp khác để cô
lập phong trào Việt Minh trên chính trường và cắt đứt mọi chỗ dựa trên các vùng
rừng núi với người thiểu số.
Tháng 7-1947, Xứ Thượng Nam Ðông Dương được khai sinh trở lại do
đặc ủy Gigal cai trị. Tháng 3-1948, Liên bang Thái Mường (gồm Lai Châu, Sơn La
và Lào Cai) được thành lập cùng với Xứ Thổ (gồm Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn) và
Xứ Nùng tại Quảng Ninh. Thỏa ước ngày 8-3-1949 công nhận quốc gia Việt Nam độc
lập trong Liên Hiệp Pháp, theo đó những sắc dân không phải người Kinhê
(non-annamites) được hưởng quy chế riêng. Ðể thực hiện dự án xứ Thượng tự trị,
Pháp dành cho Bảo Ðại vinh dự chủ tọa cùng với cao ủy Pignon buổi lễ tuyên thệ
trung thành với Pháp của người Thượng ngày 30-5-1949 tại Buôn Ma Thuột. Liền sau
đó, các chuyên viên dân sự và quân sự Pháp soạn thảo nhiều dự án tổ chức các xứ
Thượng.
Ngày 15-4-1950 Bảo Ðại ban hành Dụ số 6 thành lập hoàng Triều
Cương Thổ (Domaine de la Couronne), gồm Xứ Thượng miền Nam và Xứ Thượng miền
Bắc, độc lập với các chính quyền đồng bằng. Ranh giới và diện tích Xứ Thượng
miền Nam giống như diện tích và ranh giới Xứ Thượng Nam Ðông Dương trước kia,
gồm một phần lãnh thổ Nam Kỳ, Trung Kỳ, Cambogde và Lào, với cảng Cam Ranh làm
cửa ngõ đổ ra Thái Bình Dương.
Ðối với người Thượng miền Nam hay miền Bắc, đời sống của họ không
có gì thay đổi, các chức vụ tổ chức và quản trị lãnh thổ mới đều nằm trong tay
người Pháp. Quy chế đặc biệt dành cho Xứ Thượng miền Nam, ký ngày 21-5-1951,
dành cho người Thượng nhiều ưu đãi về quyền sử dụng đất nơi sinh trú. Quân đội
hoàng triều gồm toàn người thiểu số do Pháp đào tạo, trang bị và chỉ huy.
Ðể hạn chế thế lực của người Pháp, Bảo Ðại ban hành Chương trình
phát triển kinh tế Xứ Thượng miền Nam, do Nguyễn Ðệ soạn thảo, ngày 11-2-1952,
theo đó người Kinh được quyền lên cao nguyên làm việc trong các đồn điền và
khai phá đất đai canh tác nông nghiệp. Ngân sách do Chương trình kỹ thuật và
kinh tế đặc biệt của Mỹ đài thọ, dưới sự hướng dẫn của bác sĩ Herman Marshall.
Bị nhiều nhân sĩ Thượng phản đối, năm 1953 Nguyễn Ðệ đổi thành Chương Trình
Công Tác Xã Hội, nhằm giúp 500.000 người Thượng và 30.000 người Kinh di cư canh
tác an toàn hơn trong những trung tâm định cư cố định, với tên gọi mới là khu
trù mật. Ngân sách vẫn do Mỹ tài trợ.
Qua chương trình này, phong trào Việt Minh mất địa bàn bám trụ và
tìm cách phá hoại. Lợi dụng sự vắng mặt của quân chủ lực Pháp trên cao nguyên
(lúc đó đang tập trung trên vùng Thượng Du Bắc Việt), quân Việt Minh hô hào dân
chúng Kinh Thượng rời bỏ các khu trù mật và lôi kéo họ tham gia các đoàn dân
công tải đạn đánh Pháp, gây tình trạng mất an ninh thường xuyên trên các trục
giao thông chính, từ đồng bằng lên cao nguyên và quanh các thị xã lớn.
Hiệp định Genève ngày 20-7-1954 chấm dứt chiến tranh và phân chia
Việt Nam thành hai vùng đối nghịch. Khoảng 120.000 người tập kết ra miền Bắc,
trong đó có gần 6.000 người Thượng, những người này được huấn luyện chính trị
và quân sự để trở vào miền Nam sau 1956 giúp phe cộng sản chuẩn bị một cuộc
chiến tranh khác tàn khốc hơn.
Xứ Thượng miền Bắc, thuộc Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, được tổ chức
thành nhiều vùng tự trị như Khu Thái Mèo tự trị (29-4-1955), Khu Việt Bắc
(10-8-1956), Khu Lào Hạ Yên (25-3-1957) gồm các tỉnh Lào Cai, Hà Giang, Yên
Bái. Tất cả đều bị giải tán tháng 9-1959 và trở thành những tỉnh bình
thường.
Tại miền Nam, quy chế Hoàng Triều Cương Thổ bị chính quyền Ngô
Ðình Diệm bãi bỏ ngày 10-8-1954, Xứ Thượng miền Nam trở thành một phần lãnh thổ
của Việt Nam Cộng Hòa.
Từ sau 1954, cộng đồng người Thượng tiếp tục bị phân hóa, địa bàn
cư trú của họ trở thành những bãi chiến trường đẫm máu trong cuộc chiến mới.
Nhưng người Thượng vẫn không quên đòi quyền tự trị, một quyền mà họ hằng ao ước
từ thời Pháp thuộc; lần này họ sử dụng những phương thức đấu tranh chính trị và
quân sự như người Kinh, với sự giúp đỡ của người Mỹ và người Khmer.
(Còn tiếp)
N.V.H.
Nguồn: Nghiên cứu Lịch sử
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét