Nguyễn Văn Huy
Tiến sĩ Dân tộc học, Giáo sư phụ trách Khoa Các Dân tộc Ðông Nam Á
tại Ðại học Paris
IV. Người Thượng vẫn trên đường tìm chỗ đứng
Năm 1969, những đòi hỏi chính đáng của nhóm FULRO Thượng ôn hòa
đều được thỏa mãn, người Thượng được quyền tham gia trực tiếp vào các sinh hoạt
chính trị và đã cùng với chính quyền Việt Nam Cộng Hòa xây dựng và bảo vệ miền
Nam. Giai đoạn từ giữa tháng 10-1969 đến đầu tháng 3-1975 có lẽ là thời kỳ vàng
son nhất của cộng đồng người Thượng từ khi được biết đến, nhưng thời gian đã
quá ngắn ngủi để những dự án hội nhập người Thượng vào cộng đồng Việt Nam trở
thành hiện thực. Hơn 200.000 trên tổng số một triệu người Thượng đã chết trong
cuộc chiến. Sau ngày 30-4-1975, dưới chế độ cộng sản, phong trào FULRO, được
dịp hồi sinh, đã tổ chức nhiều cuộc đánh phá chống lại chính quyền cộng sản và
bị trấn áp trong bạo lực. Cho đến nay người Thượng vẫn còn trên đường đi tìm
chỗ đứng.
Chính sách Thượng vụ thời Ðệ nhị Cộng Hòa
Tại miền Nam, sau 1969, nhiều định chế chính trị và xã hội đã được
thành lập để hội nhập người Thượng vào cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Dưới áp lực của Hoa Kỳ, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa chấp thuận
gần như toàn bộ những nguyện vọng chính đáng của người Thượng qua hai đại hội
sắc tộc họp tại Pleiku từ 15 đến 17-10-1964 và từ 25 đến 26-6-1967. Một số đòi
hỏi của nhóm FULRO Thượng – trừ các quyền có lãnh thổ và quân đội riêng, quyền
tiếp đón các phái đoàn ngoại giao quốc tế – cũng được thỏa mãn. Những cựu thành
viên của phong trào FULRO (gần 6.000 người) đã rời Kampuchea về lại Việt Nam
sinh hoạt bình thường, 23 cán bộ cao cấp được hồi ngạch và làm việc ngay tại
địa phương nơi cư ngụ.
Ðể tranh thủ sự hợp tác của những nhân sĩ Thượng ôn hòa trong sinh hoạt chính trị (dân cử hay bổ nhiệm), chính phủ Việt Nam Cộng Hòa thành lập Phong trào Ðoàn kết các Sắc tộc Cao Nguyên Việt Nam, trụ sở đặt tại Buôn Alêa. Lễ ra mắt được cử hành trọng thể tại Buôn Ma Thuột ngày 22-4-1969. Ban chấp hành phong trào, đa số là người Rhadé, gồm có một chủ tịch danh dự (tổng thống Nguyễn Văn Thiệu), một chủ tịch chính thức (ông Y Bling, buôn Krong Pang), một đệ nhất phó chủ tịch (ông Y Dhắt Niê Kdam), một đệ nhị phó chủ tịch (ông Ya Dúk, người Kaho), một đệ tam phó chủ tịch (bà Hbi, buôn Ya), một tổng thư ký (ông Y Kuốt Ayun), một thủ quỹ (ông Y Buăn). Ban cố vấn gồm có các ông Paul Nưr (người Bahnar), Y Chôn Mlô Duôn Du và Y Bliêng Hmok. Ban chấp hành các tỉnh do chính phủ chỉ định. Tại Ðắc Lắc, các ông Y Chôn Mlô Duôn Du làm chủ tịch tỉnh bộ phong trào và Kpa Koi (người Djarai) làm phó chủ tịch. Phong trào Ðoàn Kết, trên thực tế, là cơ quan tuyển chọn người để đưa vào chính quyền. Việc làm đầu tiên là đề cử người vào Hội đồng Sắc tộc.
Hội đồng Sắc tộc, được thành lập bởi sắc luật 014/69 ngày
14-10-1969 theo điều 66, 97 và 98 Hiến pháp 1967, gồm 48 hội viên chính thức và
12 hội viên dự khuyết, trong đó 16 hội viên chính thức và 4 dự khuyết do tổng
thống Việt Nam Cộng Hòa chỉ định, 32 hội viên chính thức còn lại và 8 dự khuyết
sẽ được bầu tại các địa phương. Sắc lệnh 610 (28-10-1969) quy định số hội viên
cho từng sắc tộc tùy theo dân số; hội viên do tổng thống chỉ định có thể là
người Kinh với tư cách là chuyên viên. Cơ quan lãnh đạo Hội đồng Sắc tộc là Văn
phòng Thường trực, gồm có chủ tịch là phó tổng thống Việt Nam Cộng Hòa (người
Kinh), một phó chủ tịch, một tổng thư ký và hai phó tổng thư ký, tất cả là
người sắc tộc. Hội đồng có nhiều tiểu ban chuyên môn để nghiên cứu từng vấn đề
liên quan đến người Thượng. Nhiệm vụ của Hội đồng, trên nguyên tắc, là đưa ra
những đề nghị với chính quyền, cử đại diện đến quốc hội điều trần và lên tiếng
bảo vệ quyền lợi của các sắc tộc. Trong thực tế, Hội đồng này không có ảnh
hưởng nào đối với chính quyền vì chỉ thuần túy là một cơ quan tư vấn.
Cơ quan thực sự có quyền hành là Bộ Phát triển Sắc tộc được thành
lập ngày 9-11-1967, nhưng chức vụ tổng trưởng chỉ chính thức được bổ nhiệm ngày
22-12-1969 do sắc lệnh 197 SL/PTST. Ông Paul Nưr (người Bahnar) được cử làm
tổng trưởng, các ông Ðoàn Chí Khoan (người Tày) làm đổng lý, Châu Văn Mỗ (người
Chăm) làm tổng giám đốc và ông Y Chôn Mlô Duôn Du (người Rhadé) làm tổng thư
ký. Bộ Phát triển Sắc tộc được tổ chức từ trung ương xuống địa phương, gồm 25
ty và 65 chi nhánh.
Từ 1969 đến 1975, sự hội nhập người Thượng vào sinh hoạt chính trị
và xã hội của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa mang lại nhiều thành quả tích cực.
– Về chính trị, 90% các chức vụ quan trọng liên quan đến vấn đề
sắc tộc đều do người Thượng nắm giữ, 10% còn lại do các sắc tộc khác. Các sắc
tộc tại miền Nam có 1 tổng trưởng, 1 đổng lý văn phòng (thứ trưởng), 1 tổng thư
ký, 1 tổng giám đốc công tác, 1 công cán ủy viên, 1 giám đốc, 3 chánh sự vụ, 1
thanh tra trưởng, 4 thanh tra ngành hành chánh, 1 tỉnh trưởng, 10 phó tỉnh
trưởng, 8 quận trưởng, 30 phó quận trưởng, 26 trưởng ty phát triển sắc tộc, 24
phó trưởng ty, 9 chủ sự, 58 trưởng chi, 4 chánh án, 4 lục sự, 74 phụ thẩm tỉnh
và thị xã, 270 phụ thẩm xã, 106 hiệu trưởng trung và tiểu học, 10 thanh tra học
vụ, 7 giám thị và 3 quản đốc ký túc xá. Sắc luật 007/71 ấn định số ghế dành cho
người Thượng trong quốc hội là 6 ghế và thượng viện 2 ghế. Hơn một nửa số ghế
nghị viên hội đồng tỉnh và thị xã trên cao nguyên (25 trên 49 ghế) thuộc về
người Thượng, đa số là người Djarai và Rhadé.
– Về hành chánh, trong tổng số 553 xã và 2.004 ấp có người sắc tộc
cư ngụ, 388 xã và 1.555 ấp do người Thượng trực tiếp quản trị.
– Về giáo dục và đào tạo, có 65.943 học sinh theo học các trường
trung tiểu học và sơ cấp, 142 sinh viên (18 đã tốt nghiệp), 1.483 học sinh cao
đẳng kỹ thuật (745 đã tốt nghiệp), nhiều cán bộ tại chức và sinh viên Thượng
được cử ra nước ngoài tu nghiệp. Trung tâm Huấn luyện Trường Sơn tại Pleiku,
thành lập năm 1965, đào tạo hơn 15.000 cán bộ xây dựng sắc tộc và đến tháng
10-1970 đổi thành Trung tâm Huấn luyện Cán bộ Thượng (tương đương với Trung tâm
Huấn luyện Cán bộ Vũng Tàu dành cho người Kinh), mỗi năm đào tạo khoảng 270 cán
bộ hành chánh Thượng cho các xã ấp và đoàn trưởng Xây dựng Nông thôn. Từ 1970
đến 1975, hơn 50 cán bộ Thượng ưu tú được gởi đi học các khóa tham sự hành
chánh tại Học viện Quốc gia Hành chánh Sài Gòn.
– Về quân sự, hơn 15.000 binh sĩ Thượng đứng dưới cờ Việt Nam Cộng
Hòa, trong đó có 734 sĩ quan (130 sĩ quan được điều chỉnh cấp bực ngày
1-2-1969) và hơn 3.000 hạ sĩ quan.
– Về xã hội, quân đội và các hội thiện nguyện Hoa Kỳ (CORDS,
USAID, USOM, World Relief…) đã xây dựng nhiều cơ sở hạ tầng và tiện nghi vật
chất nhằm nâng cao dân trí và mức sống của người Thượng. Không một làng xã nào
(đã bình định xong) không có điện nước và hệ thống đường sá đi tới. Tại mỗi
trung tâm định cư, người Mỹ đã giúp các trẻ em Thượng học tập nếp sống văn minh
mới. Sách giáo khoa bằng 12 thổ ngữ khác nhau, phần lớn do các chuyên viên Hoa
Kỳ sáng tạo trừ tiếng Bahnar và Rhadé đã có từ trước, được giảng dạy ở bậc tiểu
học. Các giáo hội Thiên Chúa giáo thành lập rất nhiều cơ sở từ thiện để chăm
sóc sức khỏe và giúp đỡ người Thượng. Tại Buôn Ma Thuột, Tuyên Ðức và Lâm Ðồng
các mục sư Tin Lành xây dựng nhiều nhà thờ và bệnh xá; tại Pleiku và Kontum,
các giáo sĩ Công giáo mở các lớp học và trại cứu tế giúp dân Thượng. Các tòa án
phong tục cũng được thành lập khắp nơi để phân xử những tranh chấp của từng sắc
tộc.
Nói chung, giới trẻ Thượng thừa hưởng trực tiếp những cải tổ nhằm
nâng cao mức sống vật chất và văn hóa. Tuy vậy, phần lớn thanh niên Thượng,
quen với tiện nghi vật chất thành thị, xa rời nếp sống cổ truyền. Nhiều nhà
nhân chủng và lãnh đạo tôn giáo Pháp nói tới hiện tượng phi văn hóa (aculture);
xấu miệng hơn, người ta còn nói hiện tượng Việt hóa (?) của người Thượng.
Cũng nên biết là, do yêu cầu của chiến tranh, nhiều buôn làng
Thượng buộc phải dời ra khỏi những khu oanh kích tự do (free fire zone) để định
cư trong ấp chiến lược dọc các trục lộ giao thông hay cạnh các trung tâm đô thị
lớn, nếp sống và lối canh tác cổ truyền đã phần nào bị xao lãng. Phe cộng sản
mất địa bàn hoạt động, xúi giục dân chúng Thượng trở về chốn cũ. Tây Nguyên còn
là nơi diễn ra những trận chiến kinh hồn giữa các phe tranh chấp, hàng trăm
ngàn thanh niên Việt Nam và Thượng đã bỏ mình trên các chiến địa và hàng triệu
tấn bom đạn đã dội xuống vùng này. Những địa danh như Khe Sanh, A Sao, A Lưới,
Chu Prong, Dakto, Plei Me, Toumơrong, Buôn Hô… là những sử tích trong chiến
tranh Việt Nam.
Chống đối vẫn tiếp tục
Tại Việt Nam, chính quyền đồng nghĩa với quyền lực và quyền lợi,
tranh chấp địa vị thường xuyên xảy ra mỗi khi phân bổ chức vụ. Những lãnh tụ
Thượng trong chính quyền, vì chưa quen với sinh hoạt chung với nhau, đều giành
tối đa quyền lợi về cho sắc tộc mình. Mặc dù chỉ là một cơ quan tư vấn, sự đề
cử người vào Hội đồng Sắc tộc gây tranh chấp lớn giữa các lãnh tụ Thượng (ai
được chỉ định và ai phải qua bầu cử, tỷ lệ là bao nhiêu?) và làm cản trở sự
điều hành của định chế. Vai trò của Bộ Phát triển Sắc tộc rất là quan trọng,
ngân sách của bộ lớn hơn Bộ Chiêu hồi và Bộ Lao động, tranh nhau nắm bộ này là
ưu tư chính của những lãnh tụ Bahnar, Djarai và Rhadé. Nhưng chính quyền Sài
Gòn chỉ thường ưu đãi những người phục tùng chế độ, ngày 17-6-1971, Nay Luett,
một lãnh tụ Djarai, thay Paul Nưr trong chức vụ tổng trưởng cho tới tháng
4-1975, cán bộ Rhadé đông hơn chỉ giữ vai trò thứ yếu, do đó rất bất mãn. Thêm
vào đó, sự có mặt của chuyên viên kỹ thuật gốc Kinh trong bộ càng làm những
lãnh tụ Thượng tức tối, vì cho rằng chính quyền muốn kiểm soát hoạt động của
bộ, việc điều hành thường bị trì trệ.
Mặt khác, đối với chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, FULRO là phong
trào của riêng người Thượng, do đó mọi cố gắng đều dồn cho người Thượng, do đó,
trong Phong trào Ðoàn Kết, đại diện các sắc tộc thiểu số đều có mặt theo tỷ lệ,
trừ người Chăm và người Khmer (vì sinh sống ở đồng bằng nên không được công
nhận là những sắc tộc quốc gia). Riêng những lãnh tụ Khmer còn bị nghi ngờ có
quan hệ với chính quyền Phnom Penh, một chính quyền thân cộng do Sihanouk đứng
đầu. Trong một cuộc bỏ phiếu tại Quốc hội ngày 7-10-1969, 98 dân biểu ủng hộ
thành lập một quy chế đặc biệt cho người Khmer nhưng bị thủ tướng Trần Thiện
Khiêm phủ quyết vì quyền lợi và an ninh quốc gia. Sự kiện này càng làm cho nhóm
Khmer Chăm và Khmer Krom tại Kampuchea thêm bất mãn.
Phong trào FULRO hải ngoại
Ðể làm áp lực với nhóm FULRO Thượng về quy chánh tại Việt Nam,
cuối tháng 10-1969, Lès Kossem thành lập Ủy ban Hành động Lâm thời Trung ương,
bên cạnh Ủy ban Chỉ đạo Tối cao do ông lãnh đạo và cử hai người Chăm, Hoàng
Minh Mộ làm chủ tịch và Huỳnh Ngọc Sắng (Ya Mabrang) phó chủ tịch kiêm ủy viên
tổ chức. Nhưng đến cuối năm 1970, Lès Kossem giải tán Ủy ban Hành động Lâm thời
Trung ương vì bất lực và thành lập ủy Ban Lãnh đạo FULRO do Y Bun Sor vừa từ
Pháp trở về lên làm chủ tịch.
Ngày 18-3-1970, Lès Kossem giúp tướng Lon Nol cùng nhóm Khmer Sray,
do Intam và Cheng Heng lãnh đạo, lật đổ Sihanouk. Sau cú đảo chính này, Lès
Kossem được Lon Nol giao toàn quyền tổ chức đội quân thiểu số tại Kampuchea gồm
7 tiểu đoàn sắc tộc thiểu số người Chăm, Khmer Krom (người Khmer trên đồng bằng
sông Cửu Long) và Phnong (Phnong là người Thượng theo tiếng Khmer), tất cả gom
lại thành hai lữ đoàn: Lữ đoàn 5 Bộ binh gồm toàn người Chăm do trung tá Chek
Ibrahim chỉ huy và Lữ đoàn 40 Biệt kích gồm toàn người Thượng do Y Bhan Kpor
chỉ huy.
Lès Kossem cử người lên Mondolkiri kêu gọi lực lượng FULRO Thượng
về hợp tác trong ý đồ tái lập vương quốc Champa và thành lập Cộng Hòa Tây
Nguyên. Một số đơn vị FULRO Thượng ly khai, mất nguồn tiếp liệu, phải về hợp
tác với Lès Kossem và được bổ sung vào Lữ đoàn 40; số còn lại hợp tác với quân
Khmer Ðỏ, được phe cộng sản Việt Nam trang bị và tiếp tế, chống lại Phnom Penh.
Thủ lãnh FULRO Thượng Y Bham ênuôl vẫn bị giam lỏng tại Phnom Penh.
Việc làm đầu tiên của Lès Kossem trong chức vụ mới là xúi giục các
nhóm Khmer Krom và Khmer Chăm tấn công các làng xã và ghe thuyền của người Việt
quanh Phnom Penh và dọc lưu vực sông Mékong, làm dấy lên một phòng bài Việt
trên khắp lãnh thổ Kampuchea tháng 4-1970. Sự sát hại người Việt một cách quá
đáng buộc chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đưa quân sang Kampuchea bảo vệ đồng
thời phá luôn các căn cứ quân sự của phe cộng sản dọc vùng biên giới, đặc biệt
là tại khu Mỏ Vẹt (tỉnh Svay Rieng). Phnom Penh sau đó bị đặt dưới trướng Sài
Gòn và phong trào săn đuổi người Việt trên đất Kampuchea cũng chấm dứt.
Trước thế lực áp đảo của lực lượng Khmer Ðỏ, cuối năm 1971 Lon Nol
phong Lès Kossem hàm thiếu tướng và cử làm tổng trấn Phnom Penh; hai lữ đoàn
sắc tộc được triệu về trấn thủ quanh thủ đô. Tại đây, thấy không thể dùng võ
lực đánh lại Việt Nam, Lès Kossem thành lập Phái đoàn Vận động FULRO Hải ngoại
vận động các quốc gia dầu lửa hồi giáo Ả Rập và Ðông Nam Á ủng hộ phong trào
FULRO của ông. Mở đầu cuộc vận động, Lès Kossem dẫn 5 sĩ quan tùy tùng đi Saudi
Arabia xin viện trợ và viếng thăm La Mecque, sau đó sang Pháp, Mã Lai,
Indonesia, Nhật Bản và Thái Lan gặp những vị nguyên thủ quốc gia xin giúp đỡ
tài chánh và quân sự. Về lại Phom Penh, Lès Kossem tập trung 15 lãnh tụ Chăm
chia thành ba nhóm đi vận động ngoại giao: nhóm đi các nước Ả Rập, do Primé đại
diện, nhóm đi Ðông Nam Á do El Ibrahim cầm đầu và nhóm đi Âu Châu do chính Lès
Kossem hướng dẫn.
Uy tín của Lès Kossem ngày càng lên cao, ngày 26-10-1972 ông được
Lon Nol cử làm đặc sứ đi Indonesia và các nước Ðông Nam Á giải thích lập trường
của chính phủ Kampuchea. Nhân dịp này, ông vận động với các quốc gia Hồi giáo
Ðông Nam Á giúp người Chăm phục hồi vương quốc Champa. Nhiều buổi hội thảo về
nền văn minh và văn hóa Chiêm Thành, những quan hệ của Chiêm Thành với các quốc
gia trong vùng được tổ chức tại các thủ đô Ðông Nam Á và Châu Âu, từ 1972 đến
1975, nhằm tố cáo cuộc Nam tiến của người Việt Nam. Nhưng tham vọng của Lès
Kossem đã không được toại nguyện, Khmer Ðỏ chiếm nhiều tỉnh ở phía bắc (Strung
Treng, Kratié, Rattanakiri và Mondolkiri) và tiến dần về thủ đô Phnom Penh. Lon
Nol gọi Lès Kossem về bảo vệ thủ đô, hai lữ đoàn sắc tộc đã chống trả dữ dội
các cuộc tiến công của quân Khmer Ðỏ, cuối cùng thủ đô Phnom Penh cũng bị thất
thủ. Ngày 15-4-1975, Les Kossem cùng gia đình và một số thân tín sang Pháp tị
nạn.
Phong trào FULRO Dega
Năm 1970, cuộc chiến tại Việt Nam bước vào giai đoạn thương nghị,
người Mỹ muốn rút lui và chuẩn bị Việt Nam hóa chiến tranh, các phe thù địch
chuẩn bị cho giai đoạn hậu chiến.
Ðối với một số nhân sĩ Thượng, nhất là những lãnh tụ Rhadé, Phong
trào Ðoàn Kết (bị giải tán năm 1972) không thực sự tranh đấu cho quyền tự trị
của người Thượng trên cao nguyên. Ðầu năm 1972, những người này thành lập Ban
Bảo vệ Dân tộc, chống lại chính sách Thượng vụ của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa.
Cuối năm 1972, Ban Bảo vệ đổi tên thành Mặt trận Giải phóng Cao Nguyên Người
Thượng (Front de Libération des Hauts Plateaux Montagnards-FLHPM), còn gọi là
FULRO Dega – do Y Bham nuôl (vắng mặt) làm chủ tịch và Kpa Koi phó chủ tịch –
tranh đấu đòi quyền tự trị cho người Thượng. Dega theo tiếng Rhadé là những đứa
con của rừng núi. Cờ Dega ba màu (xanh lá cây, trắng và đỏ), ở giữa là một đầu
voi trong vòng tròn màu vàng. Tổ chức này độc lập với phong trào FULRO ở
Kampuchea.
FLHPM đặt tên cao nguyên miền Trung là Cộng Hòa Dega và thành lập
một chính phủ lâm thời gồm 11 bộ do các ông Y Bliêng Hmok, Y Chôn Mlô Duôn Du,
Kpa Koi, Y Bách êban, Y Prêh, Y Nguê… đảm nhiệm. Cộng Hòa Dega được chia thành
năm quân khu: quân khu I gồm cao nguyên Kontum, Quảng Ngãi, Bình Ðịnh; quân khu
II: cao nguyên Pleiku, Cheo Reo (Phú Bổn cũ) và Phú Yên; quân khu III: cao
nguyên Ðắc Lắc, Mdrack (Khánh Dương cũ) và Dak Nong (Quảng Ðức cũ); quân khu
IV: cao nguyên Lang Biang (Tuyên Ðức cũ), Brah Yang (Lâm Ðồng cũ) và Gung Car
(Ðồng Xoài cũ); và quân khu V gồm Ninh Thuận và Bình Thuận. Nhóm FULRO Champa
được giao cai quản quân khu V.
Sự ra đời của FULRO Dega nằm trong kế hoạch thành lập nhiều lực
lượng thứ ba của Mỹ, do tướng John Paul Van khuyến khích, để tranh quyền với
Mặt trận Giải phóng Miền Nam, nhất là với Mặt trận Tây Nguyên Tự trị do Y Bih
Aleo lãnh đạo, trong chính phủ liên hiệp gồm ba thành phần tại miền Nam Việt
Nam, theo tinh thần Hiệp định Paris 1973.
Ðể gây thế lực, phong trào Dega bí mật kêu gọi nhân sĩ, sĩ quan và
binh sĩ Thượng trở về Tây Nguyên chuẩn bị cho cuộc đấu tranh mới. Ðầu năm 1975,
lực lượng quân sự FULRO Dega có trên 10.000 tay súng (hơn 2/3 binh sĩ Thượng
trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa gia nhập hàng ngũ Dega), bộ chỉ huy và các căn
cứ quân sự được thiết lập dọc biên giới Ðắc Lắc, Quảng Ðức và Mondolkiri.
Tháng 3-1975, quân cộng sản gia tăng áp lực trên cao nguyên. Sau
khi làm chủ Buôn Ma Thuột ngày 19-3-1975, đại tá Y Blok êban (một lãnh tụ trong
Mặt trận Tự trị Tây Nguyên) được phong làm chủ tịch Ủy ban Quân quản và kêu gọi
dân Thượng hợp tác.
Những lãnh tụ Thượng tại Sài Gòn mất liên lạc với các tỉnh cao
nguyên, loan báo nhiều tin khó kiểm chứng. Ông Nay Luett, bộ trưởng Bộ Phát
triển Sắc tộc, tố cáo FULRO Dega hợp tác với cộng sản đánh chiếm Buôn Ma Thuột.
Trong thực tế, quân Dega chỉ lợi dụng tình trạng hỗn độn trên cao nguyên sau
khi quân đội miền Nam rút lui để chiếm một số quận huyện dọc biên giới.
Hay tin Buôn Ma Thuột thất thủ, Nay Luett thành lập Mặt trận Cứu
nguy Dân tộc Cao Nguyên nhằm tập hợp tất cả lực lượng Thượng không cộng sản còn
lại, kể cả những cựu thành viên FULRO Thượng, tái chiếm Tây Nguyên. Nhưng thời
gian đã quá cấp bách để có một hành động cụ thể, những người lãnh đạo Mặt trận
Cứu nguy Dân tộc cũng chạy theo đoàn người vĩ đại di tản sang Hoa Kỳ, số còn
lại trở về cao nguyên sống lẫn trong dân.
Tại Sài Gòn, chiều ngày 30-4-1975 ông Y Chôn Mlô Duôn Du, tổng thư
ký Bộ Phát triển Sắc tộc, đứng đầu Ủy ban Cách mạng Dân tộc Thiểu số do ông
thành lập để bàn giao Bộ Phát triển Sắc tộc cho đại diện Mặt trận Giải phóng
Miền Nam, rồi trở về Ðắc Lắc. Thời kỳ vàng son của người Thượng trong sinh hoạt
chính trị tại Việt Nam chấm dứt.
Phong trào cộng sản và người Thượng
Từ sau 1938, cán bộ Việt Minh thành lập nhiều mật khu trên các
vùng rừng núi phía Ðông dãy Trường Sơn, cạnh các buôn làng Thượng, để chống Pháp.
Sự kề cận này buộc những cán bộ Việt Minh phải giao tiếp với cộng đồng người
Thượng để được tiếp tế và, qua đó, hiểu biết phong tục, tập quán của người
Thượng. Tại Bình Ðịnh, cán bộ Việt Minh còn giả làm người Thượng để che mắt
quân đội Pháp trong các cuộc bố ráp. Sau 1945, cán bộ Việt Minh chính thức xuất
hiện trên cao nguyên và hoạt động ngay trong các thành phố lớn. Với khẩu hiệu
dân tộc Tây Nguyên tự trị, phong trào Việt Minh đã thu phục toàn bộ thành phần
ưu tú người Thượng do Pháp đào tạo. Hàng ngàn cán bộ và binh sĩ Thượng gia nhập
phong trào Việt Minh và được giao những chức vụ quan trọng tại các địa phương
như các ông Nay Phin (đại biểu Cheo Reo), Y Wang (đại biểu Ðắt Lắc), Nay Der
(đại biểu Kontum, Pleiku kiêm chủ tịch Ủy ban Sắc tộc), Y Klam (trưởng Ðoàn
Thanh niên Sắc tộc) và các ông Y Ngô Buôn Ya, Y Thang Niê Kdam, Y John Niê Kdam
là những sĩ quan cao cấp… Tiểu đoàn Cứu quốc quân Ðắc Lắc, do ông Y Bih Alêo
chỉ huy, đã tham gia nhiều trận đánh lớn trên cao nguyên.
Sau 1954, khoảng 120.000 cán bộ Việt Minh từ miền Nam ra Bắc tập
kết, trong đó có khoảng 6.000 người sắc tộc, đa số là người Rhadé và Djarai.
Thanh niên Thượng tập kết được Chu Văn Tấn, chủ tịch Ủy ban Dân tộc, cho đi học
tại Trường Các Dân tộc Thiểu số phía Nam tại Gia Lâm. Chương trình học tập văn
hóa bằng tiếng Việt, trình độ tiểu học, gồm các bộ môn lịch sử và văn hóa Việt
Nam. Các học viên Thượng còn được hướng dẫn sử dụng bản đồ, địa bàn và học tập
chính trị (chủ nghĩa Mác-Lênin và các khẩu hiệu chống Ngô Ðình Diệm). Cuối năm
1959, hơn 4.000 thanh niên Thượng đã tốt nghiệp từ trường này, mỗi khóa 400
người. Trong thời gian học tập, các học sinh được nuôi ăn ở và đưa đi thăm các
danh lam thắng cảnh của miền Bắc. Thỉnh thoảng các lãnh tụ đảng cộng sản đến ủy
lạo tinh thần học sinh Thượng.
Từ tháng 3-1955 trở đi, những học sinh Thượng ưu tú được gởi vào
Trường Sư phạm Trung ương để trở thành giáo viên và cán bộ sắc tộc. Thời gian
học tập gồm 9 tháng, mỗi khóa đào tạo khoảng 410 cán bộ, trong đó có 120 người
Thượng. Nhiều cán bộ Rhadé, Djarai và Sedang ưu tú, sau khi tốt nghiệp được đưa
sang Liên Xô và Trung Quốc tu nghiệp trong những trường sắc tộc. ông Y Ngôn Niê
Kdam, đại biểu Quốc hội năm 1956, được đưa sang Liên Xô học tập chính trị và
quân sự.
Trong thời gian này, Hà Nội chuẩn bị kế hoạch đưa cán bộ vào miền
Nam vận động tổng tuyển cử, dự trù vào tháng 7-1956 theo quy định của hiệp định
Genève. Các đoàn thám hiểm đầu tiên được cán bộ Thượng tập kết hướng dẫn, đi từ
Nam Lào vào Tây Nguyên, rồi từ Tây Nguyên xuống Sông Bé tiến vào Tây Ninh. Cuộc
tổng tuyển cử đã không xảy ra, tất cả ở lại nằm vùng trong các thôn xóm và vận
động dân chúng chống lại chính quyền miền Nam.
Năm 1958, lợi dụng tình trạng xáo trộn trên cao nguyên, cán bộ
cộng sản vào các làng Thượng tuyển mộ và đưa từng đợt 50 thanh niên ra Bắc học
tập, sau đó đưa về Tây Nguyên hoạt động.
Ðể đối trọng với phong trào Bajaraka của Y Bham nuôl, tháng
10-1960 Hà Nội thành lập Phong trào Dân tộc Tự trị Tây Nguyên, gọi tắt là Phong
trào Tự trị Tây Nguyên, do các ông Y Bih Aleo, Y Thang Niê Kdam, Y Ngôn Niê
Kdam cầm đầu tại Kon Hanung. Phong trào này là một bộ phận của Mặt trận Giải
phóng Miền Nam (thành lập tháng 12-1960), có nhiệm vụ mở đường Trường Sơn
(đường mòn hồ Chí Minh) vận chuyển người và vũ khí vào Nam.
Người Hré, Ktu, Bru Vân Kiều và Tà Ôi trên cao nguyên miền Trung
được giúp đỡ tận tình vì nơi sinh trú của họ nằm trên đường mòn Hồ Chí Minh,
giữa Khe Sanh và Nam Lào. Người Stiêng và Mnong trên cao nguyên miền Nam càng
được chiếu cố vì địa bàn sinh sống của họ (phía Tây Bắc Sài Gòn) là nơi đặt bản
doanh của cục R, cơ quan đầu não của phe cộng sản ở miền Nam. Sóc Bombo của
người Stiêng đã một thời được thổi phồng như một thành trì chống Mỹ. Khu vực
Tam Biên (nơi giáp ranh cũ giữa Kampuchea, miền Nam và miền Trung) gần như là
vùng giải phóng. Quy chế tự trị được áp dụng ngay tại Dak Goklam, Ban Tăng, Ban
Het, Dak Sút, Sa Thầy, Plei Ya… 40% thanh niên trong mỗi làng được huy động xây
dựng đường mòn Hồ Chí Minh.
Mặc dù được phong nhiều chức vụ danh dự trong các tổ chức vệ tinh
của đảng cộng sản và Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam, như phó chủ tịch Mặt
trận Giải phóng Miền Nam (ông Y Bih Alêo), chủ tịch các ủy ban sắc tộc, sĩ quan
quân đội…, vai trò của những lãnh tụ Thượng rất là lu mờ. Họ không được tham
gia vào bất cứ quyết định quan trọng nào liên quan tới cuộc chiến. Ban lãnh đạo
cộng sản rất sợ người Thượng kết hợp lại với nhau nên đã bằng mọi cách ly gián
hay gây chia rẽ các nhóm Thượng với nhau. Mọi liên lạc với các tổ chức Thượng
khác, kể cả những tổ chức chống lại chính quyền miền Nam, đều bị ngăn chặn.
FULRO Dega và chính quyền cộng sản
Lợi dụng tình trạng hỗn độn trên cao nguyên giữa tháng 3-1975, dân
chúng Chăm và Thượng thu nhặt vũ khí, quân trang và quân dụng do quân lực Việt
Nam Cộng Hòa vứt bỏ trong các cơ quan và dọc các quốc lộ 1, 14, 19, nộp cho lực
lượng FULRO Dega. Với số lượng vũ khí và lương thực khô thu nhặt được, bộ tham
mưu FULRO Dega cảm thấy đủ khả năng đối đầu với quân đội cộng sản, ra lệnh cho
các đơn vị FULRO chiếm nhiều đồn bót dọc vùng biên giới, một số buôn làng tại
Kontum, Pleiku, Ðắt Lắc, Quảng Ðức, Lâm Ðồng và Ninh Thuận. Lực lượng FULRO
Dega và FULRO Champa lúc đó có trên 12.000 tay súng và hơn 8.000 du kích.
Tại Phan Rang, giữa tháng 4-1975, Huỳnh Ngọc Sắng (về lại Việt Nam
từ đầu năm 1973) cùng Vạn Thanh Bình và Kiều Ngọc Quyên chỉ huy FULRO Champa
quân khu V. Lực lượng Chăm, gồm 2.000 tay súng, thành lập những đội du kích bảo
vệ thôn ấp. Cờ FULRO được treo khắp nơi. Khi bộ đội cộng sản tiến vào, du kích Chăm
nổ súng chống lại, nhưng sau vài cuộc chạm súng các đội võ trang Chăm bị đánh
bại dễ dàng, nhiều người bị thiệt mạng, một số bị bắt và một số khác trốn lên
cao nguyên Di Linh hợp cùng các nhóm Dega tổ chức kháng chiến.
FULRO quân khu I chặn đánh các đường tiếp tế từ đồng bằng lên
Kontum.
FULRO quân khu II tấn công các buôn làng quanh Pleiku và Cheo Reo,
sát hại nhiều cán bộ cộng sản.
FULRO quân khu III chiếm các quận Lạc Thiện, Buôn Hô, Krong Pách…
giết và làm bị thương hàng chục cán bộ và bộ đội, phục kích các đoàn xe quân sự
và hành khách trên các quốc lộ 14 và 19.
FULRO quân khu IV đánh phá các quận Ðơn Dương, Ðức Trọng, Lạc
Dương, Di Linh, chặn xét xe đò trên các quốc lộ 15, 20 và 21.
FULRO quân khu V, lôi kéo hàng ngàn thanh niên Chăm và Roglai vào
bưng.
Tháng 6-1975, chính quyền cộng sản tung chiến dịch truy quét FULRO
trên khắp Tây Nguyên. Nhiều cuộc hành quân quy mô, có chiến xa và trọng pháo
yểm trợ, đánh thẳng vào những sào huyệt của FULRO tại Ðắc Lắc, Lâm Ðồng và
Tuyên Ðức. Những quận huyện và buôn làng bị chiếm đều lấy lại được, nhiều cán
bộ FULRO Dega cao cấp lần lượt bị bộ đội cộng sản Việt Nam bắt (Y Chôn Mlô Duôn
Du, Y Bliêng Hmok, Y Nguê, Y Djao Niê, Nay Guh, Nay Fun, Nay Rong) và bị giam
trong các trại cải tạo tại Buôn Ma Thuột và Lâm Ðồng.
Hơn 2.000 quân FULRO Dega chạy sang Kampuchea lánh nạn và được
Khmer Ðỏ tiếp nhận. Lực lượng này do đại tá Y Peng Ayun chỉ huy với ban tham
mưu gồm nhiều sĩ quan cao cấp như trung tá Y Hinnie, Y Bhong Rcam, Y Yỗn, Kpa
Koi, Htlon…, trong đó có cả mục sư Budar Su Kbông. Binh sĩ Dega được giúp đỡ và
trang bị thêm để tiến qua Việt Nam đánh chiếm các làng ven biên tại Lâm Ðồng,
Sông Bé và Ðắc Lắc. Những trận đánh tại vùng biên giới và dọc các quốc lộ trong
những năm 1975 và 1976 rất là dữ dội.
Tại Ðắc Lắc, cuối tháng 5-1976, một số lãnh tụ Thượng bị giam (Y
Djao Niê, Nay Ful, Nay Rong, Nay Guh cùng nhiều người khác) vượt ngục và ám sát
ban lãnh đạo FULRO Dega cũ gồm các ông Kpa Koi, Htlon, Y Bách êban, Y Dhê Buôn
Dap, Hmang Mbon… để giành quyền lãnh đạo. Tháng 7-1977, nhóm này thành lập một
chính phủ mới, bộ chỉ huy đặt tại Lạc Dương, phía Bắc Ðà Lạt. Y Djao (bí danh
thiếu tướng Dampa Kwei) tự phong thủ tướng và cử Ya Duk (người Koho) làm đổng
lý văn phòng, Nay Guh bộ trưởng quốc phòng, Nay Rong (trung tá) bộ trưởng ngoại
giao, Nay Ful bộ trưởng nội vụ (cả ba là người Djarai)… Tổ chức quân sự vẫn giữ
y như cũ gồm năm quân khu, nhưng chỉ quân khu IV, do Paul Yưh (người Bahnar)
làm tư lệnh, thực sự còn hoạt động. Vụ đảo chánh này làm nhiều cán bộ FULRO nản
chí, một số buông súng ra đầu hàng, một số khác bỏ về làng làm nương rẫy.
Y Djao Niê cùng Huỳnh Ngọc Sắng lập nhiều chiến khu từ Ðơn Dương
(Drang), Tùng Nghĩa (Laba) đến Sông Pha (Krong Pha) và phối hợp với thiếu tá
Phong (tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 302 Tuyên Ðức cũ) tấn công các đồn bót và sự
di chuyển của bộ đội cộng sản trên cao nguyên Lâm Ðồng. Từ 1977 đến 1978, lực
lượng du kích này – do Krajang Hput, người Koho, chỉ huy – đã tổ chức nhiều
cuộc đột kích, đốt phá nhiều trụ sở ủy ban nhân dân xã, huyện, bắn pháo vào các
đồn bót, phục kích và bắt giữ những đoàn địa chất và lâm nghiệp, khủng bố những
người làm nghề khai thác cây rừng, chận xét xe đò, bắt cóc và ám sát cán bộ thu
mua lương thực trong các xã ấp quanh thị xã Ðà Lạt, các quận Ðơn Dương và Lạc Dương.
Nhưng tranh chấp quyền lực giữa các lãnh tụ FULRO với nhau làm tổ
chức Dega yếu hẳn đi. Y Djao Niê bị giết ngày 12-10-1978 tại Ðức Trọng, Y Ghok
Niê Krieng lên làm thủ tướng ngày 22-1-1979, Ya Duk làm phó thủ tướng thứ nhất
đặc trách nội trị và ngoại giao kiêm phó chủ tịch thứ nhất FULRO Dega, Paul Yưh
là phó thủ tướng thứ hai đặc trách an ninh và quốc phòng; ban lãnh đạo phong
trào đặt tại Ðầm Ròn (Lâm Ðồng).
Tổng kết từ 1975 đến 1979, khoảng 8.000 binh sĩ Dega bị loại khỏi
vòng chiến, phần lớn bị chết dưới những trận tập kích của pháo binh và thiết
giáp, số còn lại chết vì thiếu thuốc men và bệnh tật. Nhiều người chịu không
nổi cảnh thiếu thốn trong rừng sâu đã ra đầu thú và đi ở tù. Sau 1980, phong
trào kháng chiến Thượng, thiếu sự hỗ trợ của dân chúng, yếu dần theo thời gian,
những ổ kháng cự cuối cùng lần lượt bị tháo gỡ và đến cuối năm 1982 thì phong
trào FULRO trên Tây Nguyên gần như tan rã, một số bị bắt, số còn lại ra đầu
hàng.
Tại Kampuchea, hơn một ngàn người Thượng đã chạy qua Thái Lan tị
nạn khi bộ đội cộng sản Việt Nam tiến vào Mondolkiri cuối năm 1979, hơn 200
binh sĩ Dega sau đó được sang Hoa Kỳ tị nạn và 800 người Stiêng được Pháp nhận
vào Guyane (Trung Mỹ) năm 1986. Lực lượng Dega còn lại phân tán thành nhiều
toán nhỏ sống lẫn vào dân chúng trong các buôn làng xa xôi.
Năm 1980, khoảng 1.500 FULRO Dega về lại Việt Nam hoạt động. Các
toán du kích Thượng đột nhập vào các tỉnh Pleiku, Kontum, Ðà Lạt và Ðắc Lắc
khủng bố, ám sát cán bộ xã ấp rồi rút về Kampuchea. Năm 1981, quân FULRO đặt mìn
phá trạm biến điện tại Gia Lai Kontum, phục kích những toán công an tại Lâm
Ðồng, chặn xét xe đò, kêu gọi dân Thượng chống lại Việt Nam và bắt theo nhiều
thanh niên Thượng từ 15 tuổi trở lên vào bưng kháng chiến. Sự phản công của bộ
đội cộng sản Việt Nam cũng rất dữ dội: năm 1984 có 358 FULRO Dega bị giết,
1.734 bị bắt, 600 vũ khí bị tịch thu. Từ 1985 đến 1990, bộ đội cộng sản Việt
Nam tổ chức 63 cuộc hành quân trên Tây Nguyên, hạ sát 102 quân FULRO, bắt sống
167 người khác và vô hiệu hóa hơn 10.000 dân Thượng trong những buôn làng xa
xôi, tất cả được dời về gần nơi thị tứ hay cạnh các trục lộ giao thông để dễ
canh chừng. Thiệt hại về phía bộ đội và cán bộ cộng sản Việt Nam cũng rất cao,
con số không được tiết lộ nhưng chắc cũng bằng hoặc hơn nhóm Dega Thượng vì
không quen đường đi nước bước trong rừng và thường bị phục kích bất ngờ bởi
những cựu biệt kích Thượng.
Chính quyền Khmer thân Việt Nam, trong những năm 1981-1983, cũng
tổ chức nhiều cuộc hành quân tấn công vào sào huyệt của lực lượng Khmer Ðỏ và
FULRO Dega tại Mondolkiri nhưng bị thiệt hại nặng phải lùi về đồng bằng. Phải
chờ đến năm 1986, với sự trợ lực của bộ đội Việt Nam, đại bản doanh FULRO
Thượng tại Mondolkiri mới bị phá hủy, tàn quân FULRO tản mác khắp nơi. Tháng
9-1991, lực lượng UNTAC (United Nations Transitional Authority in Cambodia) của
Liên Hiệp Quốc bắt gặp hơn 400 FULRO Thượng với 175 súng cá nhân sống lây lất
trong rừng, tất cả được đưa sang Hoa Kỳ tị nạn năm 1992. Tháng 5-1998, một nhóm
sáu người (gồm ba đàn ông, một đàn bà và hai trẻ em, trang bị bằng cung nỏ)
thuộc lực lượng FULRO cuối cùng còn lẩn trốn bị bắt tại Ðắc Lắc, phong trào
FULRO tại Việt Nam và Kampuchea coi như chấm dứt.
Tuy vậy, tại hải ngoại, phong trào FULRO vẫn còn hoạt động. Y Bhan
Kpor, thoát sang Thái Lan và được tị nạn tại Hoa Kỳ, tiếp tục lãnh đạo phong
trào Dega tại hải ngoại. Y Jut Buôn Tô, cựu đốc sự hành chánh, và Kok Ksor là
những người đại diện phong trào trong việc ký kết hay hợp tác với các tổ chức
khác. Hiện nay có trên ba ngàn người Thượng tại Hoa Kỳ, đa số sinh sống tại hai
tiểu bang North và South Carolina trong bốn thành phố: Raleigh, Greenboro,
Charlotte và Spartanburg.
Người Thượng dưới chế độ cộng sản
Phong trào Tự trị Tây Nguyên của Y Bih Alêo chết theo Mặt trận Dân
tộc Giải phóng Miền Nam năm 1976, những hứa hẹn trong thời chiến tranh về quyền
tự trị của người Thượng không còn được nhắc đến, thay vào đó là chính sách dân
tộc. Dân tộc ở đây phải hiểu là sắc tộc thiểu số và chính sách dân tộc là chính
sách phòng vệ biên giới, thuộc lãnh vực quốc phòng, chứ không phải để nâng cao
đời sống người thiểu số.
Việt Nam có trên ba ngàn cây số biên giới đường bộ, một khu vực
đang còn tranh chấp với các lân bang và là nơi sinh trú của các sắc tộc thiểu
số. Ðịa bàn cư trú của người Thượng trên Tây Nguyên có một vị thế chiến lược
quan trọng, đó là yết hầu của ba nước Ðông Dương: làm chủ Tây Nguyên là làm chủ
Việt Nam, Lào và Kampuchea. Tây Nguyên chính vì vậy là một khu quân sự, do đảng
cộng sản trực tiếp quản lý qua trung gian các chính quyền địa phương, mặt trận
tổ quốc, quân đội và công an biên phòng. Một số làng-biên-giới được thành lập
dọc biên giới Kampuchea và Lào, các làng Thượng ven biên được dời vào sâu trong
nội địa.
Tùy theo mức độ phục tùng của từng nhóm Thượng mà sự kiểm soát của
chính quyền tăng hay giảm. Những lãnh tụ thời chiến như Y Bih Alêo, Y Dhơn Niê
Kdam, Nay Der, Nay Phin… đều đã già hay đã chết, những cán bộ và đại biểu
Thượng đang còn trong đảng hay tại quốc hội và các chính quyền địa phương không
có thực quyền, thành phần cán bộ trẻ không được tin cậy, mọi chức vụ quan trọng
đều do người Kinh nắm giữ. Nơi cư trú của người Rhadé, Djarai, Bahnar và Stiêng
bị canh chừng nghiêm ngặt, mọi ngỏ ra vào Tây Nguyên đều bị kiểm soát. Ðoạn
đường từ Sài Gòn lên Ðà Lạt có hơn 20 trạm kiểm soát. Ðoạn đường từ Nha Trang
lên Buôn Ma Thuột có trên 15 trạm kiểm soát. Ðoạn đường liên tỉnh từ Pleiku đến
Kontum cũng có hơn 10 trạm. Du kích địa phương theo dõi gắt gao quan hệ của
từng người trong làng, nhất là quan hệ với các tu sĩ và người ngoại quốc.
Phần lớn người Thượng ngày nay đã định cư và định canh, chỉ còn khoảng
300.000 người vẫn còn duy trì nếp sống du canh du cư. Từ sau 1976, đất công xã
của các buôn làng đều bị tập thể hóa, các định chế mẫu hệ (nhà rông, nhà tập
thể) bị giải tán. Các tòa án nhân dân thay thế các tòa án phong tục. Cán bộ lấn
át vai trò của các già làng, thanh thiếu niên Thượng tại những nơi đông dân bị
đoàn thể hóa. Tiếng Việt là ngôn ngữ chính giảng dạy trong các trường học,
tiếng mẹ đẻ cho trẻ em ở bậc tiểu học bị cấm. Tỷ lệ thất học trên Tây Nguyên
cao nhất nước, 60% trẻ em Thượng không đi đến trường vì thiếu ăn và nghèo khó.
Số học sinh tốt nghiệp trung học, rất ít, thường không tìm được việc làm phải
trở về buôn làng canh tác nông nghiệp. Bệnh tật nhiệt đới (cùi, lao, kiết lỵ,
sốt rét rừng…) là tác nhân gây tử vong cao trong cộng đồng người Thượng, nhất
là trẻ em. Mọi trợ giúp nhân đạo bất cứ từ nguồn gốc nào đều bị thanh lọc gắt
gao.
Tây Nguyên có từ 1,5 đến 1,8 triệu hécta đất trồng trọt được nhưng
hiện nay chỉ khai thác trên 400.000 mẫu. Từ 1976 đến nay, chính quyền cộng sản
đã đưa hơn ba triệu người từ các tỉnh đồng bằng sông Hồng và hơn 70.000 người
thiểu số từ các tỉnh thượng du miền Bắc lên Tây Nguyên khai thác số đất đai còn
lại. Người Thượng trở thành thiểu số trên chính quê hương của họ: 1,6 triệu
(30%) trên tổng dân số 5,4 triệu người. Theo luật sử dụng đất đai ban hành năm
1999, diện tích canh tác của người Thượng bị thu hẹp lại, mỗi hộ dân chỉ được
thuê tối đa ba mẫu. Cũng nên biết trong mỗi nhà sàn (là một hộ) nhiều gia đình
sống chung với nhau theo chế độ sở hữu tập thể. Luật sử dụng đất đai mới này
phá vỡ nếp sống cổ truyền của người Thượng, vì mỗi nhà sàn phải phân tán thành
từng hộ nhỏ để có thể thuê thêm đất canh tác, nếu không sẽ bị đói. Ðó là chưa
kể nạn lợi dụng sự thật thà của người Thượng bởi những di dân bất hảo để chiếm
đoạt những khu đất tốt dọc các con suối và các trục lộ giao thông. Tại một số
nơi, do thiếu văn hóa, những di dân còn đối xử với người Thượng như những nô
lệ.
Sự có mặt ồ ạt của di dân từ đồng bằng lên làm xáo trộn toàn bộ
sinh thái trên Tây Nguyên. Do đời sống nghèo khó và không được chính quyền giúp
đỡ, sự hủy hoại môi trường sinh sống của những di dân mới này rất là báo động.
Hơn hai triệu hécta đất rừng trên các vùng đồi núi biến thành đồi trọc, gây hạn
hán mùa khô và lũ lụt mùa mưa. Diện tích rừng từ 3,3 triệu hécta năm 1976 giảm
xuống còn 2,5 triệu năm 1984 và ngày nay chưa tới một triệu. Ðó là chưa kể nạn
khai thác gỗ rừng bừa bãi của các công ty quân đội và công an biên phòng tại
các vùng biên giới để xuất khẩu. Thêm vào đó là nạn đào tìm kim loại và đá quí
bằng hóa chất gây ô nhiễm môi sinh, nhiều loại thú quí như cọp, khỉ, công và
rắn lục bị tuyệt chủng.
Tương lai của cộng đồng người Thượng rất là bấp bênh, vấn đề hội
nhập người Thượng vẫn còn nguyên vẹn. Dân tộc Việt Nam đã trả những giá rất đắt
cho hận thù và chia rẽ, chúng ta phải thức tỉnh và nhìn ra những vết xe đổ. Xây
dựng đồng thuận dân tộc phải là ưu tư hàng đầu của những người muốn lãnh đạo
Việt Nam tương lai.
(Hết)
N.V.H.
Nguồn: Nghiên cứu Lịch sử
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét