Thời kỳ tiền sử
Bài chi
tiết: Việt Nam thời tiền sử, văn hóa Tràng An, văn hóa Ngườm, và văn hóa Soi Nhụ
Lịch sử Việt
Nam thời tiền sử (trước thời Hồng Bàng)
chỉ được ghi nhận, dự đoán thông qua các di tích khảo cổ. Các truyền thuyết, dã sử đều có sau giai đoạn này.
Thời đại đồ đá
Bài chi
tiết: Văn hóa Sơn Vi, Văn hóa Hòa Bình, và Văn hóa Bắc Sơn
Khu vực nay
là Việt Nam đã có người ở từ thời kỳ đồ đá cũ. Các nhà khảo cổ đã tìm ra các dấu vết người thượng cổ cư ngụ
tại hang Thẩm Hoi, Thẩm Khuyên (Lạng Sơn),
núi Đọ (Thanh Hóa),
Thung Lang (Ninh Bình) và Nga Sơn, Thanh Hóa cách
đây hàng trăm nghìn năm. Thời kỳ này mực nước biển thấp hơn, và Việt Nam khi đó
nối liền với bán đảo Malaysia, đảo Java, Sumatra và Kalimantan của Indonesia,
với khí hậu ẩm và mát hơn bây giờ. Người Việt cổ khai thác đá
gốc (ba-dan) ở sườn núi, ghè đẽo thô sơ một mặt, tạo nên những công cụ mũi
nhọn, rìa lưỡi dọc, rìa lưỡi ngang, nạo,... bỏ lại nơi chế tác những mảnh đá vỡ
(mảnh tước). Những di tích ở núi Đọ được coi là bằng chứng cổ xưa nhất về sự có
mặt của con người tại vùng đất Việt, khi tổ chức xã hội loài người chưa hình
thành.
Vào thời kỳ mà
các nhà nghiên cứu gọi là Văn hóa Sơn Vi, những nhóm cư dân nguyên
thủy tại đây đã sinh sống bằng hái lượm và săn bắt trong một hệ sinh thái miền
nhiệt - ẩm với một thế giới động vật và thực vật phong phú, đa dạng cách đây
11-23 nghìn năm, cuối thế Canh Tân (Late Pleistocene).
Cách đây 15.000
– 18.000 năm trước, đây là thời kỳ nước biển xuống thấp. Đồng bằng Bắc Bộ bấy giờ kéo dài ra mãi
đến tận đảo Hải Nam và các khu vực khác. Về mặt địa chất học thời kỳ khoảng 15 nghìn năm
trước Công nguyên (cách đây khoảng 18 nghìn năm) là thời kỳ cuối của kỷ băng
hà, nước biển dâng cao dần đến khoảng năm 8.000 năm trước đây thì đột ngột dâng
cao khoảng 130m (tính từ tâm của kỷ băng hà là khu vực Bắc Mỹ). Nước biển ở lại suốt thời
kỳ này cho đến và rút đi vào khoảng 5.500 năm trước đây. Ứng với thời kỳ này
cùng với các di chỉ khảo cổ cho thấy nước biển đã ngập toàn bộ khu vực đồng
bằng sông Hồng ngày nay đến tận Vĩnh Phúc trong suốt gần 3.000 năm.
Do chính đặc
trưng về địa chất nên vùng đồng bằng sông Hồng, vịnh Bắc bộ không có điều kiện
khai quật nền đất cổ đại có ở khoảng 8.000 năm trước Công nguyên (trước khi có
đại hồng thủy) để xác nhận dấu vết của các nền văn minh khác nếu có. Trang sử
Việt có một khoảng trống không xác định được từ khoảng năm trước 5.500 năm -
18.000 năm trước.
Sau thời kỳ văn
hóa Sơn Vi là văn hóa Hòa Bình và Bắc Sơn, thuộc thời kỳ đồ đá mới. Văn hóa Hòa
Bình được ghi nhận là cái nôi của nền văn minh lúa nước, xuất thân từ Đông Nam
Á có niên đại trễ được tìm thấy vào khoảng 15000 năm trước đây. Do đặc trưng
địa chất về hồng thủy nên có thể một phần sự phát triển rực rỡ của nền văn hóa
Hòa Bình có thể đã chưa bao giờ được nhận ra và tìm thấy. Các nhà khảo cổ đã
liên kết sự khởi đầu của nền văn minh người Việt ở cuối thời kỳ đồ đá mới và
đầu thời đại đồ đồng (vào khoảng hơn 5700 năm
trước Công nguyên).[2]
Thời đại đồ đồng đá
Bài chi tiết: Văn hóa Phùng Nguyên
Văn hóa Phùng
Nguyên là một nền văn hóa tiền sử thuộc sơ kỳ thời đại đồ đồng, cuối thời đại đồ đá mới, cách đây chừng 4.000 năm
đến 3.500 năm.[cần dẫn nguồn] Phùng Nguyên
là tên một làng ở xã Kinh Kệ, huyện Lâm Thao,
tỉnh Phú Thọ, nơi đầu tiên tìm ra các di chỉ của nền văn hóa này.
Thời đại đồ đồng
Bài chi
tiết: Văn hóa Đồng Đậu và Văn hóa Gò Mun
Văn hóa Đồng Đậu
là nền văn hóa thuộc thời kỳ đồ đồng ở Việt Nam cách ngày nay khoảng 3.000 năm,
sau văn hóa Phùng Nguyên, trước văn hóa Gò Mun. Tên của nền văn hóa này đặt
theo tên khu di tích Đồng Đậu ở thị trấn Yên Lạc,
huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc.
Thời đại đồ sắt
Bài chi
tiết: Văn hóa Đông Sơn, Văn hóa Sa Huỳnh, và Văn hóa Óc Eo
Đến khoảng năm
1200 TCN, sự phát triển của kỹ thuật trồng lúa nước và đúc đồ đồng trong khu vực sông Mã và
đồng bằng sông Hồng đã dẫn đến sự phát triển của nền văn hóa Đông Sơn, nổi bật với các trống đồng. Các vũ khí, dụng cụ và trống đồng được khai quật của văn hóa Đông Sơn minh chứng cho việc kỹ
thuật đúc đồ đồng bắt nguồn từ đây, nhiều mỏ đồng nhỏ xưa đã được
khai quật ở miền Bắc Việt Nam. Ở đây các nhà khảo cổ đã tìm thấy quan tài và
lọ chôn hình thuyền, nhà sàn,
và bằng chứng về phong tục ăn trầu và nhuộm răng đen.
Thời kỳ cổ đại (2879–111 TCN)
Kỷ Hồng Bàng (?–258 TCN)
Truyền thuyết về nước Xích Quỷ
Bài chi
tiết: Xích Quỷ
Theo một số sách
cổ sử,[3] các
tộc người Việt cổ (Bách Việt)
sinh sống ở miền Lĩnh Nam, bao gồm một vùng rộng lớn phía nam sông Trường Giang của Trung Quốc hiện
nay đến vùng đồng bằng sông Hồng, sông Mã ở miền bắc Việt Nam. Truyền thuyết kể rằng nhà
nước Xích Quỷ của các tộc người
Việt đã được hình thành từ năm 2879 TCN tại vùng Hồ Động Đình (Hồ Nam, Trung Quốc ngày
nay).
Hiện không có
chứng cứ khảo cổ để khẳng định sự tồn tại của nước Xích Quỷ, nó chỉ mang tính
huyền thoại giống như thời kỳ Tam Hoàng Ngũ Đế của Trung Hoa. Nếu thực
sự tồn tại một liên minh của các bộ tộc người Việt cổ (Xích Quỷ)
trong thời kỳ này thì có thể nói đây chỉ là một kiểu liên minh các bộ
tộc lỏng lẻo giữa các nhóm tộc Việt khác nhau như Điền Việt ở Vân Nam, Dạ Lang ở Quý Châu, Mân Việt ở Phúc Kiến, Đông Việt ở Triết Giang, Sơn Việt ở Giang Tây, Nam Việt ở Quảng Đông, Âu Việt (Tây
Âu) ở Quảng Tây, Lạc Việt ở miền bắc Việt Nam,[4]...
Các nhóm tộc Việt này có nhiều điểm khác nhau về ngôn ngữ, tập quán và địa bàn
cư trú, quan hệ giữa các tộc này chủ yếu là trao đổi buôn bán chứ không có một
nhà nước thống nhất.
Đến thời Xuân Thu–Chiến Quốc (thế kỷ VIII TCN đến thế kỷ III TCN), do các sức ép từ các vương
quốc Sở, Tần ở miền Bắc Trung
Quốc và làn sóng người Hoa Hạ chạy
tị nạn chiến tranh từ miền Bắc xuống nên dần dần các tộc người Việt cổ bị
mất lãnh thổ, một số bộ tộc Việt bị đồng hóa vào người Hoa Hạ.
Đỉnh điểm là vào thời Tần Thủy Hoàng, lãnh thổ của Trung Hoa kéo xuống
tận ven biển phía nam Quảng Đông.[5]
Những biến động
trong thời kỳ này cũng dẫn tới sự tan rã của liên minh của các tộc người Việt;
từ thế kỷ VIII TCN trở đi từ các bộ tộc Việt
cư trú tại các khu vực khác nhau ở miền nam sông Dương Tử đã hình thành nên các nhà
nước khác nhau ở từng khu vực cũng như thời kỳ như: Nước Việt, Văn Lang, Việt Thường, Nam Việt, Âu Lạc, Quỳ Việt, Mân Việt, Đông Việt,... Các bộ tộc này từng bước bị các vương triều của
người Hoa Hạ ở miền Bắc sông Dương Tử đánh bại thôn tính, hoặc là
tự nội chiến với nhau dẫn tới suy yếu. Đến thời kỳ đế chế Hán khoảng thế kỷ I TCN, tất cả các nhà nước Việt đều bị
thôn tính.[6]
Nước Văn Lang (Thế kỷ VII–258 TCN hoặc 218 TCN)
Bài chi
tiết: Văn Lang
Lãnh thổ nước Văn Lang năm 500 TCN
Đến thế kỷ 8
TCN, các nhà nước độc lập của các tộc người Việt dần được hình thành khắp vùng
phía Nam sông Dương Tử.[6]
Các tài liệu
nghiên cứu hiện đại[7] cũng
như các bằng chứng khảo cổ học[8] phần
lớn đều đồng ý theo ghi chép của Việt sử lược về một vương
quốc Văn Lang của
người Lạc Việt có niên đại thành lập vào thế kỷ VII TCN cùng thời Chu Trang Vương (696 TCN – 682 TCN)
ở Trung Quốc. Vương quốc này tồn tại ở khu vực mà ngày nay là
vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ cũng như ba tỉnh Thanh Hóa-Nghệ An-Hà Tĩnh.
Nhà nước này có thể đã giao lưu buôn bán với các bộ tộc Việt khác, có thể là cả
với nước Việt của Việt Vương Câu Tiễn ở khu vực hạ lưu
sông Trường Giang (Trung Quốc) ngày nay.
Bộ máy nhà
nước Văn Lang đã
bước đầu phỏng theo thể chế quân chủ. Ở trung ương do vua Hùng đứng đầu, có các Lạc hầu và Lạc tướng giúp việc.
Ở địa phương chia thành 15 bộ (là 15 bộ lạc của vùng đồng bằng Bắc Bộ trước khi nhà nước ra
đời) do Lạc tướng cai quản. Dưới bộ là các làng do Bồ chính cai quản.
Nhà Thục (257
TCN –179 TCN)
Bài chi
tiết: Âu Lạc
Đến thế kỷ III TCN, Thục Phán, thủ lĩnh của bộ tộc Âu Việt –
một trong những bộ tộc của Bách Việt ở
phía Bắc Văn Lang, đã đánh bại Hùng Vương thứ 18 lập nên nhà nước Âu Lạc.
Nhà nước liên minh Âu Việt – Lạc Việt đã đánh bại cuộc xâm lược của nhà Tần.
Nhà nước định đô tại Cổ Loa, thuộc huyện Đông Anh, Hà Nội ngày
nay. Ông tự xưng là An Dương Vương.
Nước Âu Lạc của An Dương Vương bị Triệu Đà (một viên tướng cũ của nhà Tần)
thôn tính năm 208 TCN (hoặc 179 TCN).
Thời kỳ Bắc thuộc (111 TCN–939 SCN)
Nhà Triệu (180
TCN–111 TCN)
Xem
thêm: Vấn đề chính thống của nhà Triệu
Xem
thêm: Nhà Triệu và Nam Việt
Bắc thuộc là
một vấn đề còn có hai quan điểm khác nhau từ xưa đến nay của lịch sử Việt Nam,
phần lớn các quan điểm sử học thời phong kiến đều cho rằng nhà Triệu là
một triều đại trong lịch sử Việt Nam, vì vậy thời Bắc thuộc bắt đầu từ
năm 111 TCN khi nhà Hán đánh
chiếm nước Nam Việt. Quan điểm thứ hai được xuất hiện từ thế kỷ XVIII khi
sử gia Ngô Thì Sĩ phủ nhận nhà Triệu là
triều đại chính thống của Việt Nam vì Triệu Đà vốn là người Hoa ở phương Bắc, là
tướng theo lệnh Tần Thủy Hoàng mà đánh xuống phương Nam.
Quan điểm này được tiếp nối bởi sử gia Đào Duy Anh trong thế kỷ XX,
các sách lịch sử trong nền giáo dục tại Việt Nam hiện nay đều theo quan điểm
này. Theo quan điểm thứ hai này thì thời Bắc thuộc trong
lịch sử Việt Nam bắt đầu từ năm 179 TCN khi nhà Triệu đánh
chiếm nước Âu Lạc của An Dương Vương.
Cuối thời
Tần, Triệu Đà (người nước Triệu thời Chiến Quốc, nay là tỉnh Hà Bắc của Trung Quốc) được nhà Tần bổ
nhiệm là Huyện lệnh huyện Long Xuyên, sau được Nhâm Ngao tự
ý bổ nhiệm làm Quận úy quận Nam Hải (thuộc tỉnh Quảng Đông ngày nay).
Nhân khi nhà Tần rối
loạn sau cái chết của Tần Thủy Hoàng (210 TCN), Triệu Đà đã
tách ra cát cứ quận Nam Hải, sau đó đem quân thôn tính sáp nhập
vương quốc Âu Lạc và quận Quế Lâm lân
cận rồi thành lập một nước riêng, quốc hiệu Nam Việt với
kinh đô đặt tại Phiên Ngung (nay là thành phố Quảng Châu,
tỉnh Quảng Đông) vào năm 207 TCN.
Nước Nam Việt trong
thời nhà Triệu bao gồm khu vực hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây
của Trung Quốc và miền Bắc Việt Nam ngày nay. Nam Việt được
chia thành 4 quận: Nam Hải, Quế Lâm, Giao Chỉ và Cửu Chân.
Biên giới phía bắc là hệ thống dãy núi Ngũ Lĩnh,
biên giới phía nam là dãy Hoành Sơn.
Sau khi nhà Hán được
thành lập và thống nhất toàn Trung Quốc, Triệu Đà xưng là Hoàng đế của nước Nam
Việt để tỏ ý ngang hàng với nhà Tây Hán. Trong khoảng thời gian 68 năm (179 TCN – 111
TCN), miền Bắc Việt Nam hiện nay là một phần của
nước Nam Việt, nước này có vua là người Trung Hoa và vị vua này không công
nhận sự cai trị của nhà Hán.
Bắc thuộc lần 1 (111 TCN–40 SCN)
Năm 111 TCN,
đội quân của Hán Vũ Đế xâm chiếm nước Nam Việt và
sáp nhập Nam Việt vào đế chế Hán. Người Trung Quốc muốn cai quản miền châu thổ sông Hồng để có điểm dừng cho tàu
bè đang buôn bán với Đông Nam Á.[9] Trong thế kỷ I,
các tướng Lạc Việt vẫn còn được giữ chức, nhưng Trung Quốc bắt
đầu chính sách đồng hóa các lãnh thổ bằng
cách tăng thuế và
cải tổ luật hôn nhân để biến Việt Nam thành
một xã hội phụ hệ để dễ tiếp thu quyền lực chính trị hơn.
Hai Bà Trưng (40–43)
Một cuộc khởi
nghĩa do Hai Bà Trưng lãnh đạo đã nổ ra ở
quận Giao Chỉ, tiếp theo sau đó là các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố và
các địa phương khác của vùng Lĩnh Nam (mà
theo cổ sử Việt ghi nhận là có tất cả 65 thành trì) hưởng ứng trong năm 40. Sau đó, nhà Hán phái
tướng Mã Viện sang đàn áp cuộc khởi nghĩa này. Sau 3 năm
giành độc lập, cuộc khởi nghĩa bị tướng Mã Viện đàn
áp. Do bị cô lập và quân đội chưa
tổ chức hoàn thiện nên Hai Bà Trưng không
đủ sức chống cự lại quân do Mã Viện chỉ huy. Hai Bà Trưng đã tự vẫn trên
dòng sông Hát để giữ vẹn khí tiết.
Bắc thuộc lần 2 (43–544)
Tiếp theo
sau nhà Hán, các triều đại phong kiến Trung Quốc kế tiếp
khác như Đông Ngô, nhà Tấn, Lưu Tống, Nam Tề, nhà Lương lần
lượt thay nhau đô hộ Việt Nam,
người Việt cũng đã nhiều lần nổi dậy chống lại sự cai trị của ngoại bang, tuy
nhiên tất cả đều không thành công cho mục tiêu giành độc lập.
Các cuộc nổi dậy
tiêu biểu như khởi nghĩa anh em Triệu Quốc Đạt và Triệu Thị Trinh vào
thời thuộc Đông Ngô. Cuộc nổi dậy của anh em Lý Trường Nhân và Lý Thúc Hiến từ thời bắc thuộc Lưu Tống,
Nam Tề từ năm 468 đến 485.
Nhà Tiền Lý (544–602)
Năm 541, Lý Bí nổi dậy khởi nghĩa, đã đánh đuổi được thứ sử Tiêu
Tư nhà Lương, sau 3 lần đánh bại quân Lương những năm kế
tiếp, Lý Bí tự xưng đế tức là Lý Nam Đế, lập ra nước Vạn Xuân vào
năm 544.
Đến năm 545, nhà Lương cử Trần Bá Tiên và Dương Phiêu sang đánh
nước Vạn Xuân, Lý Nam Đế bị thua trận, giao lại binh quyền
cho Triệu Quang Phục. Sau khi Lý Nam Đế mất, Triệu
Quang Phục đánh đuổi được quân Lương vào năm 550, bảo vệ được nước Vạn
Xuân. Ông tự xưng là Triệu Việt Vương, đến năm 571, một người cháu của Lý
Nam Đế là Lý Phật Tử đã cướp ngôi Triệu Việt Vương,
tiếp tục giữ được sự độc lập cho người Việt thêm 20 năm nữa cho đến khi nhà Tùy sang
đánh năm 602.
Bắc thuộc lần 3 (602– 905)
Kế tiếp nhà
Tùy, nhà Đường đô hộ Việt Nam gần
300 năm. Trung Quốc đến thời Đường đạt tới cực thịnh, bành trướng ra 4 phía,
phía bắc lập ra An Bắc đô hộ phủ, phía đông đánh nước Cao Ly lập
ra An Đông đô hộ phủ, phía tây lập ra An Tây đô hộ phủ và phía nam lập ra An
Nam đô hộ phủ, tức là lãnh thổ nước Vạn Xuân cũ.
Trong thời kỳ
thuộc nhà Đường, đã nổ ra các cuộc khởi nghĩa chống Bắc thuộc của người Việt
như khởi nghĩa Lý Tự Tiên và Đinh Kiến,
khởi nghĩa Mai Hắc Đế, khởi nghĩa Phùng Hưng và
khởi nghĩa Dương Thanh từ cuối thế kỷ VII đến thế kỷ IX.
Từ sau loạn An Sử (756–763), nhà Đường suy yếu và bị mất thực quyền kiểm soát với
nhiều địa phương do các phiên trấn cát cứ, không kiểm soát nổi phía nam. An Nam
đô hộ phủ bị các nước láng giềng Nam Chiếu, Chăm Pa, Sailendra vào
cướp phá và giết hại người bản địa rất nhiều, riêng Nam Chiếu đã giết và bắt
đến 15 vạn người, quân Đường bị đánh bại nhiều lần. Tới năm 866, nhà Đường kiểm
soát trở lại và đổi gọi là Tĩnh Hải quân.
Cuối thế kỷ IX,
nhà Đường bị suy yếu trầm trọng sau cuộc nổi loạn của Hoàng Sào và
các chiến tranh quân phiệt tại Trung Quốc. Tại Việt Nam, năm 905, một hào trưởng địa
phương người Việt là Khúc Thừa Dụ đã chiếm giữ thủ phủ Đại La,
bắt đầu thời kỳ tự chủ của người Việt.
Ảnh hưởng đến văn hóa Việt Nam
Các triều đại
này cố gắng đồng hóa dân
tộc Việt Nam theo tộc Hán. Tuy vậy, mặc dù chịu nhiều ảnh hưởng về tổ
chức thể chế chính trị, xã hội, văn hóa của
Trung Quốc, nhưng người Việt Nam vẫn giữ được nhiều bản chất nền tảng văn hóa
dân tộc vốn có của mình sau một nghìn năm đô hộ.[10]
Người Việt cũng
chịu ảnh hưởng của Phật giáo Đại thừa đang phát triển ở Đông Á,
mặc dù lúc đó Đông Nam Á đã chịu ảnh hưởng của Ấn Độ giáo và Phật giáo Nguyên
thủy. Phật giáo Đại thừa được hòa trộn với Nho giáo, Lão giáo và
thêm vào đó là các tín ngưỡng dân gian địa phương.[11]
Thời kỳ tự chủ (905–939)
Họ Khúc (905–923 hoặc 930)
Năm 905, Khúc Thừa Dụ đã xây dựng chính quyền tự
chủ của người Việt nhân khi nhà Đường suy yếu, đặt nền móng cho nền độc lập của Việt Nam.
Thời kỳ quân chủ (939–1945)
Xem
thêm: Lãnh thổ Việt Nam qua từng thời kỳ
Bản đồ
hoạt hình về sự thay đổi lãnh thổ của Việt Nam, 1009–1945
Thời kỳ độc lập (939–1407)
Năm 939, Ngô Quyền xưng
vương sau trận chiến lịch sử trên sông Bạch Đằng trước quân Nam Hán.
Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh xưng đế, lập nên nhà Đinh (968–980)
và đặt tên nước là Đại Cồ Việt.
Năm 980, Lê Hoàn lên
ngôi vua, lập nên nhà Tiền Lê (980–1009).
Năm 1009, Lý Công Uẩn lên ngôi vua, lập nên nhà Lý (1009–1225).
Năm 1054,
vua Lý Thánh Tông đổi tên thành Đại Việt.
Việt Nam giai
đoạn này trải qua nhiều chế độ phong kiến: Nhà Ngô (939–965), nhà Đinh (968–980), nhà Tiền Lê (980–1009), nhà Lý (1009–1225), nhà Trần (1226–1400)
và nhà Hồ (1400–1407).
Trong thời kỳ
này, các vương triều phương Bắc ở Trung Hoa, Mông Cổ mang quân sang xâm lược,
nhưng đều bị Việt Nam đẩy lùi: Lê Hoàn và Lý Thường Kiệt đẩy lui hai lần quân nhà Tống (năm
981 và 1076), nhà Trần đánh bại quân Mông Cổ năm
1258 và kế tiếp là nhà Nguyên vào
năm 1285 và 1288. Đầu thế kỷ XV, nhà Minh xâm
chiếm được Đại Việt và cai trị trong 20 năm, nhưng cũng bị Lê Lợi nổi lên đánh đuổi năm 1428 và thành lập nhà Hậu Lê. Năm 1789, nhà Thanh sang
xâm lược cũng bị Nguyễn Huệ đánh bại. Tuy nhiên, từ cuối thế kỷ XVIII trở
đi, phong kiến Việt Nam đã bắt đầu suy yếu.
Từ thế kỷ X tới thế kỷ XIV,
các triều đại Đại Việt xây dựng nhà nước trên cơ sở Phật giáo cùng
với những ảnh hưởng Nho giáo từ Trung Quốc. Tới cuối thế kỷ XIV,
ảnh hưởng của Phật giáo dần
thu hẹp và ảnh hưởng của Nho giáo tăng lên, sự phát triển nhà nước Nho giáo
theo mô hình kiểu Trung Hoa, sang đến thế kỷ XV thì
Đại Việt có một cơ cấu chính quyền tương tự nước láng giềng Trung Hoa, cơ
cấu luật pháp, hành chính, văn chương và nghệ thuật đều theo kiểu Trung Hoa.
Cùng với việc
thu nhận mô hình chính trị, tổ chức xã hội của Trung Hoa, các triều đại Việt
Nam từ thế kỷ X trở đi từng bước mở rộng vùng ảnh hưởng ra ngoài
khu vực đồng bằng sông Hồng. Từ triều Lý, thông qua các
cuộc hôn nhân, quân sự và tấn phong thủ lĩnh các bộ tộc miền núi, các vương triều
Lý, Trần, Lê đã lần lượt sáp nhập và đưa các sắc tộc khác ở vùng Tây Bắc, Đông Bắc vào quốc gia Đại Việt. Cùng
với người Việt, các bộ tộc miền núi đã cùng chung sức với người Việt trong các
công cuộc chống ngoại xâm và xây dựng đất nước.
Việt Nam trong
thời phong kiến phát triển vẫn dựa vào nông nghiệp mà chủ yếu là trồng lúa nước để cung cấp
lương thực, từng triều đại đã lần lượt cho đắp đê ngăn lũ lụt,
đào kênh dẫn nước cũng như giao thông đi lại, khai hoang các vùng đất đồng bằng
ven biển để tăng diện tích trồng trọt. Các hoạt động thương mại, ngoại thương
cũng đã được hình thành. Ngoài hai quốc gia láng giềng Trung Quốc và Chăm Pa,
vào thời nhà Lý, nhà Trần đã
có buôn bán thêm với các vương quốc trong vùng Đông Nam Á tại thương cảng Vân Đồn (Quảng Ninh),
thời Hậu Lê có buôn bán thêm với châu Âu, Nhật Bản tại
các trung tâm như Thăng Long và Hội An.
Trúc Lâm Đại sĩ xuất sơn đồ (竹林大士出山图)
Bắc thuộc lần 4 (1407–1427)
Năm 1407, quân Minh sang
xâm lược Đại Ngu với cớ đánh đuổi nhà Hồ khôi
phục nhà Trần (Phù Trần diệt Hồ). Quân Minh nhanh chóng đánh
bại quân Đại Ngu, giai đoạn này gọi là Bắc thuộc lần 4.
Các lực lượng
của Nhà Hậu Trần đã nổi dậy từ 1407–1413 để
chống lại quân Minh nhưng cũng bị đánh dẹp.
Một thủ lĩnh Giao
Chỉ là Lê Lợi khởi nghĩa chống lại sự đô hộ của Nhà Minh.
Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn giành thắng lợi năm
1427, Lê Lợi lên ngôi hoàng đế, lập ra Nhà Hậu Lê.
Thời kỳ trung hưng (1428–1527)
Đại Việt sử ký toàn thư - bộ chính sử Việt Nam xưa nhất còn tồn tại nguyên
vẹn đến ngày nay
Năm 1427, Lê Lợi sau
khi đánh bại quân Minh lập ra Nhà Hậu Lê, giai đoạn này còn được gọi là Nhà Lê sơ.
Thời kỳ chia cắt (1527–1802)
Sông Gianh,
biên giới giữa Đàng Ngoài và Đàng Trong gần
200 năm.
Bắt nguồn từ
thời kỳ Nam – Bắc triều, năm 1527, sau khi giành ngôi
từ nhà Hậu Lê, Mạc Đăng Dung đã lập nên nhà Mạc.
Nhà Hậu Lê (sử gọi là nhà Lê trung hưng) được tái lập vài năm sau đó
với sự giúp đỡ của Nguyễn Kim,
một tướng cũ và giành được sự kiểm soát khu vực từ Thanh Hóa vào Bình Định. Sau khi Nguyễn Kim chết, người con rể là Trịnh Kiểm đã giành quyền bính, 60 năm kế tiếp, Trịnh
Kiểm và các con cháu của ông đã giành được chiến thắng trước nhà Mạc vào
năm 1592 và
mở đầu cho thời kỳ đặc biệt trong lịch sử phong kiến Việt Nam, thời kỳ vua Lê chúa Trịnh.
Việt Nam giai
đoạn này trải qua nhiều chế độ phong kiến: Nhà Mạc (1527–1592), nhà Lê trung hưng (1533–1789), chúa Trịnh (1545–1787), chúa Nguyễn (1558–1777) và nhà Tây Sơn (1778–1802).
Sự mâu thuẫn
giữa hai người cận thần của nhà Lê trung hưng là Trịnh Kiểm và Nguyễn Hoàng (trấn thủ xứ Thuận Hóa và Quảng Nam)
đã bắt đầu cho sự phân chia đất nước ra thành hai lãnh thổ. Trong khi Trịnh
Kiểm tìm cớ giết Nguyễn Uông (con cả của Nguyễn Kim) thì Nguyễn Hoàng chạy vào
Thuận Hóa lập cát cứ, hai chính quyền riêng biệt là Đàng Ngoài và Đàng Trong với sông Gianh (Quảng Bình)
làm biên giới. Các con cháu của Trịnh Kiểm lần lượt kế tiếp nhau nắm quyền ở
Đàng Ngoài được gọi là các chúa Trịnh,
các con cháu của Nguyễn Hoàng kế tiếp nhau cầm quyền ở Đàng
Trong được gọi là các chúa Nguyễn, các vua Lê chỉ có danh vị hoàng đế của
Đại Việt trên danh nghĩa.
Thời kỳ Đại Việt
chia thành hai lãnh thổ riêng biệt Đàng Ngoài và Đàng Trong cũng
là thời kỳ hoạt động ngoại thương sôi động, cả Đàng Ngoài và Đàng Trong đều
tham gia vào hệ thống giao thương toàn cầu bởi các thương nhân châu Âu, Nhật
Bản, Trung Hoa đến Đại Việt buôn bán. Người Hà Lan, Anh, Pháp lập
các thương điếm tại Kẻ Chợ (Hà Nội), người Bồ Đào Nha, Anh, Nhật Bản đặt các thương điếm tại Faifo (Hội An). Các mặt hàng chính được
xuất khẩu từ Đại Việt là tơ lụa, hồ tiêu,
gốm sứ. Tuy nhiên, sang đến thế kỷ XVIII thì
hoạt động thương mại giảm sút ở cả Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài.[12]
Cùng với sự giao
thương buôn bán với các nước phương Tây và Nhật Bản, đạo Công giáo cũng bắt đầu được truyền vào Đại
Việt qua các giáo sĩ phương Tây theo các tàu buôn vào giảng đạo ở cả Đàng Ngoài
và Đàng Trong. Nền tảng vững chắc của Công giáo tại Việt Nam được các thừa
sai Dòng Tên xây dựng vào thế kỉ 17.[13]
Mở rộng lãnh thổ về phương Nam
Bài chi
tiết: Nam tiến
Các thời
kỳ Nam tiến của người Việt
Dấu ấn về việc
mở rộng đất nước trong thời kỳ phong kiến này chính là sự bành trướng xuống
phương Nam, cuộc Nam tiến nhằm tìm đất nông nghiệp để cung cấp lương thực
cho sự gia tăng dân số của Đại Việt. Với một quân đội có tổ chức tốt hơn,
từ thế kỷ XI đến thế kỷ XV,
sau các cuộc chiến tranh cũng như hôn nhân chính trị giữa Đại Việt và Chăm Pa,
lãnh thổ Đại Việt đã được mở rộng thêm từ dãy Hoành Sơn (bắc Quảng Bình)
tới đèo Cù Mông (bắc Phú Yên).
Từ thế kỷ XVII,
Đàng Trong là một lãnh thổ, chính quyền riêng biệt với Đàng Ngoài, do các chúa Nguyễn cai quản. Các chúa Nguyễn về danh nghĩa là
quan của nhà Hậu Lê, nhận lệnh vua Lê cai quản phía Nam, nhưng thực tế họ cai
trị Đàng Trong tương đối độc lập, ít khi nhận lệnh từ nhà Hậu Lê. Nhằm tiếp tục
tìm kiếm thêm diện tích đất đai cho sự gia tăng dân số, cũng như tăng cường
quyền lực các chúa Nguyễn đã lần lượt tiến hành các cuộc chiến tranh với Chăm
Pa và sáp nhập hoàn toàn phần lãnh thổ còn lại của người Chăm (từ Phú Yên tới Bình Thuận)
vào năm 1693.
Tiếp đó, sau các
cuộc di dân của người Việt từ Đàng Trong vào sinh sống ở vùng đất của người Khmer, các chúa Nguyễn lần lượt thiết lập chủ quyền từng
phần trên vùng đất Nam Bộ, sau các cuộc chiến với vương quốc Khmer, vương quốc Ayutthaya cũng như các yếu tố
chính trị khác, từ năm 1698 đến
năm 1757,
chính quyền Đàng Trong đã giành được hoàn toàn Nam Bộ ngày nay vào sự kiểm soát
của mình.
Cùng với việc mở
rộng lãnh thổ trên đất liền, chính quyền Đàng Trong lần lượt đưa người ra khai
thác và kiểm soát các hòn đảo lớn
và quần đảo trên biển Đông và vịnh Thái Lan. Quần đảo Hoàng Sa được khai thác và kiểm
soát từ đầu thế kỷ XVII, Côn Đảo từ
năm 1704, Phú Quốc từ năm 1708 và quần đảo Trường Sa từ năm 1816.[14]
Sự khác biệt
về văn hóa giữa hai miền có lẽ bắt nguồn từ cuộc Nam tiến
này. Văn hóa Nho giáo trong chính quyền miền Nam không phát triển nhiều, do họ
chịu ảnh hưởng phần nào của văn hóa Champa, văn hóa Khmer. Ngày nay,
người miền Bắc tiết kiệm, bảo vệ nhóm, giỏi ứng
xử; người miền Nam thoải mái trong đời sống, trong
suy nghĩ và thẳng thắn.[15] Tổ
chức hành chính cũng khác biệt. Cách tổ chức chính quyền tỉ mỉ ở miền Bắc đã
được đơn giản hóa ở miền Nam.[15]
Thời kỳ thống nhất (1802–1858)
Xem
thêm: Chiến tranh Tây Sơn–Chúa Nguyễn
(1789-1802)
Đại Nam nhất thống toàn đồ năm 1834
Từ giữa thế kỷ XVIII,
các cuộc chiến liên tục giữa Đàng Trong với vương quốc Khmer, Ayutthaya cũng như các cuộc
tranh chấp ở Đàng Ngoài làm cho đời sống người dân thêm cùng quẫn. Nhiều cuộc
khởi nghĩa của nông dân đã nổ ra, song phần lớn chịu thất bại. Tới phong trào
nổi dậy của Tây Sơn bùng nổ năm 1771 tại Quy Nhơn (Bình
Định) đã phát triển rộng lớn đánh bại hai chế độ cai trị của hai họ Nguyễn,
Trịnh, chấm dứt việc chia đôi đất nước, cũng như bãi bỏ nhà Hậu Lê vốn chỉ còn trên danh nghĩa.
Nhà Tây Sơn đã đánh bại 5 vạn quân Xiêm La (năm 1784) tại miền Nam và 29
vạn quân Mãn Thanh (năm 1789) xâm lược tại miền
Bắc. Vua Tây Sơn là Nguyễn Huệ chính thức trở thành vua của Đại Việt, lấy niên
hiệu là Quang Trung, thống nhất hầu hết lãnh thổ từ miền Bắc vào
tới Gia Định. Tuy nhiên sau cái chết của ông năm 1792, nội bộ lục đục khiến
chính quyền Tây Sơn càng ngày càng suy yếu.
Một người thuộc
dòng dõi chúa Nguyễn ở miền Nam là Nguyễn Phúc Ánh,
với sự hậu thuẫn và cố vấn của một số người Pháp,
đã đánh bại được nhà Tây Sơn vào năm 1802. Ông lên làm vua, lấy
niên hiệu là Gia Long và trở thành vị vua đầu tiên của nhà Nguyễn,
với lãnh thổ gồm hai đồng bằng phì nhiêu nối với nhau bằng một dải duyên hải.
Năm 1804,
ông cho đổi tên nước từ Đại Việt thành Việt Nam.
Gia Long (1802–1820) đóng đô ở Huế,
ông cho xây dựng kinh đô Huế tương tự như Tử Cấm Thành ở Bắc Kinh (Trung Quốc).
Gia Long và con trai Minh Mạng (cai
trị 1820–1841) đã cố gắng xây dựng
Việt Nam theo khái niệm và phương pháp hành chính của Trung Quốc thời nhà Thanh.
Từ thập niên 1830, giới trí thức Việt Nam (đại
diện tiêu biểu là Nguyễn Trường Tộ) đã nhận thấy sự tụt hậu và
trì trệ của đất nước, họ đề nghị triều đình nên học hỏi phương Tây để phát
triển công nghiệp – thương mại, nhưng các quan lại này chỉ là thiểu số. Đáp
lại, vua Minh Mạng và những người kế tục Thiệu Trị (1841–1847) và Tự Đức (1847–1883) chọn chính sách đã
lỗi thời là coi trọng phát triển nông nghiệp (dĩ nông vi bản), tiếp tục cấm buôn bán với
nước ngoài.
Ngoài ra, các
vua Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức ngăn cấm truyền bá Công giáo mà họ coi là "tả
đạo". Tiếp nối các thừa sai Dòng Tên dưới quy chế bảo trợ Bồ Đào Nha là
các thừa sai Pháp và Tây Ban Nha đến truyền giáo từ nửa sau thế kỉ 17. Một số
giáo sĩ Pháp nổi bật cũng hỗ trợ nhân lực và vật lực cho nhà Nguyễn trong cuộc
chiến với nhà Tây Sơn dẫn đến chiến thắng của vua Gia Long.
Đến giữa thế kỷ 19, có khoảng 450.000 người Công giáo.[16] Chính
quyền nhà Nguyễn dưới các triều vua này lo ngại sự lớn mạnh của
một tôn giáo khác biệt và có tổ chức nên đã ra lệnh cấm truyền đạo Công giáo,
đồng thời đàn áp những người theo đạo Công giáo và san bằng nhiều xóm đạo.
Thời kỳ hiện đại (1858–nay)
Thời kỳ Pháp thuộc (1858–1945)
Xem thêm: Chiến tranh Pháp-Đại Nam
Bài chi
tiết: Pháp thuộc và Việt Nam trong Chiến tranh thế giới
thứ nhất
Việt Nam
bị chia làm ba kỳ thuộc Liên bang Đông Dương
Ngày 31 tháng 8 năm 1858, Hải quân Pháp đổ bộ tấn công vào cảng Đà Nẵng và sau đó rút vào xâm
chiếm Sài Gòn. Tháng 6 năm 1862, Vua Tự Đức ký
hiệp ước nhượng ba tỉnh miền Đông cho Pháp.
Năm 1867, Pháp chiếm
nốt ba tỉnh miền Tây kế tiếp để tạo thành một lãnh thổ thuộc
địa Nam Kỳ (Cochinchine).
Sau khi củng cố vị trí vững chắc ở Nam Kỳ,
từ năm 1873 đến
năm 1886,
Pháp xâm chiếm nốt những phần còn lại của Việt Nam qua những cuộc chiến phức
tạp ở Bắc Kỳ. Miền Bắc khi đó rất hỗn độn do những mối
bất hòa giữa người Việt và người Hoa lưu vong. Chính quyền Việt Nam không thể
kiểm soát nổi mối bất hòa này. Cả Trung Hoa và Pháp đều coi khu vực này thuộc
tầm ảnh hưởng của mình và gửi quân đến đó, nhưng cuối cùng thì người Pháp đã
chiến thắng.
Pháp tuyên bố là
họ sẽ "bảo hộ" Bắc Kỳ (Tonkin)
và Trung Kỳ (Annam), nơi họ tiếp tục
duy trì các vua nhà Nguyễn cho
đến Bảo Đại (làm vua từ 1926 đến 1945) cùng bộ máy quan
lại. Nhà Nguyễn tuy tiếp tục tồn tại ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ nhưng chỉ còn quyền
lực hạn chế, mọi vấn đề lớn phải được Toàn quyền Đông Dương của Pháp thông qua.
Vào năm 1885,
các quan lại Việt Nam tổ chức phong trào kháng chiến Cần Vương chống
Pháp nhưng thất bại. Các vua Nguyễn là Hàm Nghi, Duy Tân và Thành Thái có
ý phản kháng đều bị Pháp truất ngôi và đưa đi đày.
Vào năm 1887, hoàn tất quá trình
xâm lược Việt Nam, người Pháp đã tổ chức ra một bộ máy cai trị khá hoàn
chỉnh từ trung ương cho đến địa phương. Ở trung ương là Phủ toàn quyền Đông Dương (ban đầu thủ phủ
ở Sài Gòn, năm 1902 đặt ở Hà Nội).
Đứng đầu Phủ toàn quyền gọi là Toàn quyền Đông Dương, là người có quyền hành
cao nhất trong thể chế chính trị Pháp trên toàn cõi Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ và Cao Miên.
Đứng đầu ở 3 kỳ là: Thống đốc Nam Kỳ, Khâm sứ Trung Kỳ và Thống sứ Bắc Kỳ, cả ba đều nằm dưới quyền giám
sát và điều khiển tối cao của viên Toàn quyền Đông Pháp, trực thuộc bộ Thuộc
địa. Đến năm 1893,
quyền kiểm soát của Toàn quyền Đông Pháp được mở rộng thêm,
bao gồm cả Ai Lao.
Sau thất bại
của phong trào Cần Vương cuối thế kỷ 19, người Pháp đã cũng cố hoàn toàn việc tổ chức cai trị
tại Việt Nam. Cuộc cải cách trong giáo dục trong thập niên 1910 đã
xóa bỏ hoàn toàn nền nho học với chữ Hán cả
nghìn năm trong chế độ phong kiến Việt Nam để thay thế bằng phong trào tân học
theo chữ quốc ngữ đã tạo ra một tầng lớp trí thức mới, đó là
những người xuất thân từ truyền thống nho giáo nhưng được tiếp cận với văn hóa phương Tây. Đại diện tiêu biểu cho giới
này là Phan Châu Trinh và Phan Bội Châu đã mở đầu cho Phong trào Duy Tân và Phong trào Đông Du vận động tăng cường dân
trí, dân chủ, nhân quyền và cải cách xã hội cho người Việt trước tầng lớp người
Pháp cai trị. Tuy nhiên sự phát triển các phong trào này sau đó bị chính quyền
thực dân dẹp bỏ vì nhận thấy nguy cơ đối với chế độ thuộc địa của họ.
Cuối thập niên 1920, những người Việt cấp tiến dưới
ảnh hưởng của Chủ nghĩa Tam Dân đã thành lập Việt Nam Quốc dân Đảng. Tuy nhiên, đến
năm 1930,
sau khi cuộc Khởi nghĩa Yên Bái thất bại, Việt Nam Quốc dân Đảng bị suy yếu nghiêm
trọng. Cùng năm đó, một số thanh niên Việt Nam theo Chủ nghĩa Marx-Lenin thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương, nhưng cũng mau chóng
trở thành mục tiêu tiêu diệt của Pháp mặc dù tổ chức của họ thân thiện
với Mặt trận Bình dân trong chính quyền
Pháp.
Thời kỳ Nhật thuộc (1940–1945)
Nhật Bản tấn
công Đông Dương vào năm 1940 và nhanh chóng
thỏa thuận được với chính quyền Vichy ở Pháp để cho Nhật toàn
quyền cai trị Đông Dương. Chính quyền thực dân Pháp chỉ tồn tại đến tháng 3 năm 1945 khi Nhật tấn
công toàn bộ Đông Dương. Ngay sau đó, Nhật thiết lập một chính quyền thân Nhật
với quốc vương Bảo Đại và thủ tướng Trần Trọng Kim, đặt quốc hiệu mới đế quốc Việt Nam và quốc kỳ là cờ quẻ ly.
Việt Minh (viết
tắt của Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội) thành lập năm 1941 với vai trò một
mặt trận của Đảng Cộng sản Đông Dương được điều hành
từ Pắc Bó (ở biên giới Việt – Trung) bởi Hồ Chí Minh khi ông trở về nước lần đầu tiên kể từ
năm 1911 (năm
ông rời Việt Nam), mặc dù ông có liên hệ với những người Cộng sản trong nước
trong các thập niên 1920 và 1930.
Ngày 11 tháng 3
năm 1945 khi quân đội Nhật Bản làm cuộc đảo chính lật đổ chính phủ Bảo hộ của Pháp, được sự hậu
thuẫn và kiểm soát của Nhật, hoàng đế Bảo Đại ban ra một chiếu chỉ với nguyên văn:
"Theo
tình hình thế giới nói chung và hiện tình Á Châu, chính phủ Việt Nam long trọng
công bố rằng: Kể từ ngày hôm nay, Hòa ước Bảo hộ ký kết với nước Pháp được hủy
bỏ và vô hiệu hóa. Việt Nam thu hồi hoàn toàn chủ quyền của một quốc gia độc
lập."[17]
Trần Trọng Kim được bổ nhiệm làm thủ tướng
một chính phủ mới với danh xưng Đế quốc Việt Nam, nhưng hầu hết quyền lực của
chính phủ này do lực lượng phát xít Nhật nắm giữ. Trên thực tế, Đế
quốc Việt Nam là một chính phủ bù nhìn do Đế quốc Nhật Bản dựng lên. Đến ngày 14 tháng 8 năm
1945 khi Nhật Bản đầu hàng quân Đồng Minh (bao
gồm cả Việt Minh tại Việt Nam), chính quyền Trần Trọng Kim bên
bờ vực sụp đổ. Lúc này, Việt Minh kiểm
soát toàn bộ khu vực nông thôn, chính quyền Trần Trọng Kim và quân đội Nhật chỉ còn cố cầm cự ở một số
thành phố lớn. Trong thời gian cầm quyền, chính phủ Trần Trọng Kim không tổ
chức được Tổng tuyển cử nên không trở thành chính
phủ chính thức mà chỉ là chính phủ lâm thời, chưa phải là người đại diện
hợp pháp của nhân dân Việt Nam.
Đầu năm 1945, Việt Nam rơi vào một
tình trạng hỗn loạn. Chiến tranh đã làm kiệt quệ nền kinh tế, người Nhật chiếm lấy lúa gạo và
các sản phẩm khác, bắt dân phá lúa trồng đay để phục vụ chiến tranh, cộng thêm thiên tai, nạn đói (Nạn đói Ất Dậu) đã xảy ra tại Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Người ta ước tính rằng đã có khoảng
hai triệu người chết vì nạn đói này.[18]
Thời kỳ cộng hòa (1945–nay)
|
Bài
viết này hiện đang gây tranh cãi về tính trung lập. Có thể có thảo
luận liên quan tại trang thảo luận. Xin đừng xóa bảng thông
báo này cho đến khi kết thúc hoặc đạt được đồng thuận trong vấn đề này. |
Tuyên bố độc lập
Bài chi tiết: Việt Nam trong Chiến tranh thế giới
thứ hai, Cao trào kháng Nhật cứu nước, Chiến dịch Đông Dương thuộc Pháp
(1945), và Cách mạng Tháng Tám
Tuyên bố Potsdam của Anh, Mỹ và Trung Hoa Dân quốc gửi Nhật
ngày 26 tháng 7 năm 1945 không nói rõ phần lãnh thổ nào của
Đông Dương sẽ do ai giải giới vũ khí mà
chỉ nói các vùng lãnh thổ do Nhật Bản chiếm được bằng vũ lực sẽ được các nước
đồng minh vào giải giới. Tuyên bố cũng không nhắc đến việc vùng nào do ai giải
giới mà chỉ nói là phe Đồng minh (bao gồm cả Việt Minh) sẽ tham gia giải giới.[19] Tuy
nhiên, Thủ tướng Nhật lúc đó là Suzuki tuyên bố bác bỏ Tuyên bố Potsdam cũng như Tuyên bố Cairo trước đó.[20] Tới
ngày 10 tháng 8 năm 1945, phía Nhật mới chấp nhận Tuyên bố Potsdam và đầu hàng
quân Đồng Minh.[21]
Trước đó, lực
lượng Việt Minh do Hồ Chí Minh lãnh đạo đã liên tục chống phát xít Nhật và thực dân Pháp từ thập niên 1930. Đặc biệt, trong năm 1945, Việt
Minh đã nhiều lần tổ chức cho quần chúng nhân dân cướp các kho gạo của Nhật để
cứu đói. Tới tháng 8 năm 1945, lực lượng Việt Minh lãnh
đạo đã tổ chức thành công cuộc Cách mạng tháng Tám, giành lấy quyền lực ở hầu
khắp các tỉnh tại Việt Nam (trừ một số tỉnh biên giới giáp Trung Quốc).
Chính quyền phát xít Nhật khi đó đã đầu hàng Đồng Minh, Hoàng đế Bảo Đại thoái
vị và trở thành cố vấn tối cao của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Ngày 2 tháng 9 năm 1945 tại Hà Nội, Hồ Chí Minh tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa độc lập và
thống nhất từ miền Bắc tới miền Nam. Đầu năm 1946, một cuộc bầu cử toàn
quốc đã được tổ chức. Các đại biểu Việt Minh chiếm ưu thế, song các phe phái
khác cũng được mời tham gia chính phủ một cách rộng khắp. Quốc kỳ được chọn là
cờ nền đỏ, sao vàng năm cánh, hiến pháp được thông qua. Nhà nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa chính thức trở thành người đại diện hợp pháp của nhân dân Việt Nam
từ Bắc chí Nam.
Kháng chiến chống Pháp (1946–1954)
Bài chi tiết: Chiến tranh Đông Dương và Trận Điện Biên Phủ
Tuy nhiên, nền
độc lập của Việt Nam bị đe dọa chỉ sau 2 tuần. Ở miền Bắc, Đồng Minh chỉ định quân đội quốc gia
Trung Hoa giải giới Nhật Bản. Quân Trung Hoa duy trì ở đó đến tháng 5 năm 1946 rồi chuyển giao
cho Pháp trong sự chịu đựng của chính quyền Hồ Chí Minh. Ngược lại, ở miền Nam,
quân Nhật được giải giới bởi quân Anh–Ấn.
Sau đó, quân Anh–Ấn đã chuyển giao miền Nam cho
Pháp khi Pháp trở lại miền Nam Việt Nam vào cuối năm 1945. Trong suốt năm 1946, chính quyền Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa do Hồ Chí Minh lãnh đạo đã đàm phán hòa bình với Pháp, mặc
dù vậy hai bên cũng chuẩn bị lực lượng cho chiến tranh. Pháp chỉ công nhận
quyền tự trị trong Liên hiệp Pháp của Việt Nam chứ không đống ý cho Việt Nam
độc lập. Sau khi Pháp ra tối hậu thư đòi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đầu hàng,
chiến tranh giữa Việt Nam và thực dân Pháp bùng
nổ tháng 12 năm 1946.
Vào đầu
năm 1947,
Pháp có vẻ thắng thế và nắm được toàn bộ các đô thị lớn của Việt Nam. Tuy
nhiên, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kiên trì
với chiến lược "chiến tranh nhân dân" và chiến thuật du
kích, tổ chức và đào tạo nhân dân cho một cuộc chiến vũ trang lâu dài khiến
Pháp sa lầy. Tới năm 1949, để giảm bớt gánh nặng, Pháp đàm phán với các chính
trị gia người Việt chống nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để thành
lập một chính phủ mới là Quốc gia Việt Nam. Người đứng đầu chính phủ này
là Bảo Đại, vốn là vua cuối cùng của nhà Nguyễn, với cờ Quẻ Ly là
quốc kỳ. Chính phủ này có sự tham gia của các quan lại cũ thân Pháp. Pháp hỗ
trợ tài chính, vũ khí cũng như nắm quyền chỉ huy, còn Quân đội Quốc gia Việt Nam góp quân
tham gia cùng Pháp hòng dập tắt phong trào kháng chiến của Việt Minh.
Năm 1950, chính quyền Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Liên Xô bắt
đầu trợ giúp Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vũ khí. Bên kia, Pháp được Mỹ hậu
thuẫn, hỗ trợ phần lớn chiến phí, nhưng đầu thập niên 1950, thế trận của Pháp bắt đầu yếu
đi ở Đông Dương. Thất bại ở trận Điện Biên Phủ vào ngày 7 tháng 5 năm 1954 đã kết thúc hoàn
toàn nỗ lực của Pháp và Mỹ nhằm chiếm giữ Việt Nam và toàn bộ Đông Dương.
Bài chi tiết: Hiệp định Genève và Cuộc di cư Việt Nam, 1954
Sau trận Điện Biên Phủ, các bên tham chiến đã
họp tại Genève năm 1954 để kế thúc chiến tranh.
Kết quả Hiệp định Genève được ký kết với nội dung
là đình chiến và tạm thời phân chia Việt Nam thành hai vùng tập trung quân sự
tạm thời có ranh giới tại vĩ tuyến 17, ranh giới này không được coi là
biên giới chính trị hay biên giới quốc gia. Miền Bắc là nơi tập kết của quân
đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, lãnh đạo
bởi Hồ Chí Minh. Miền Nam là nơi tập kết quân của Liên hiệp Pháp (bao gồm Quốc gia Việt Nam). Tập kết chính trị tại chỗ,
tập kết dân sự theo nguyên tắc tự nguyện. Theo Tuyên bố cuối cùng của Hiệp
định, sau 2 năm, khi Pháp rút quân xong thì cả hai miền sẽ tổ chức tuyển cử để
thống nhất đất nước. Dân chúng có quyền lựa chọn cư trú tại miền Bắc hoặc miền
Nam. Khoảng 1 triệu người, gồm phần lớn là người theo Công giáo ở
miền Bắc đã di cư vào Nam, trong khi 150.000 người
(gồm phần lớn là bộ đội chống Pháp người miền Nam) tập kết ra miền bắc.
Chính
quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở miền bắc
do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo đã kêu gọi những giá trị mang tính
cộng đồng, hướng lên xã hội chủ nghĩa, bao gồm nông nghiệp -
công nghiệp tập thể. Đa số dân chúng đã ủng hộ hết mình cho chính quyền Hồ Chí
Minh. Cải cách ruộng đất trong thập niên 1950 đã giải quyết được vấn đề
công bằng ruộng đất cho nông dân nghèo, tuy nhiên một số sai lầm gây ra sự xáo
trộn đời sống xã hội miền Bắc trong giai đoạn đầu[22].
Về mặt kinh tế, các nhà máy công nghiệp mới bắt đầu được xây dựng với sự hỗ trợ
về vốn, công nghệ của các nước thuộc khối Xã hội chủ nghĩa.
Chính quyền Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa xem Hiệp định Genève là một thắng lợi quan
trọng vì Hiệp định này quy định một cuộc tổng tuyển cử để thành lập một quốc
gia độc lập và thống nhất. Họ tin rằng mình sẽ thắng cử vì uy tín rộng khắp của
Hồ Chí Minh lúc đó. Tuy nhiên, cuộc tuyển cử đã không bao giờ diễn ra. Pháp rút
quân, Tổng thống Mỹ Eisenhower được báo cáo của CIA cho biết khoảng
80% người Việt Nam sẽ bầu cho Hồ Chí Minh nếu mở cuộc tổng tuyển cử[23] Hoa
Kỳ quyết định hậu thuẫn cho Ngô Đình Diệm thành lập chính phủ riêng
biệt ở phía Nam vĩ tuyến 17, không thực hiện tổng tuyển cử thống nhất Việt Nam.[24] Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tố cáo đây
là hành động phá hoại Hiệp định Genève.[25][26]
Chiến tranh Việt Nam (1955–1975)
Trong thời gian
1956-1958, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đề nghị Quốc gia Việt Nam thi hành tuyển
cử thống nhất đất nước, nhưng bị từ chối. Năm 1955, với sự trợ giúp của
Mỹ, Ngô Đình Diệm đã gian lận để chiến thắng
trong Cuộc trưng cầu dân ý miền Nam Việt
Nam, cho phép ông phế truất Bảo Đại, lên làm Quốc trưởng của Quốc gia Việt Nam và sau này trở
thành Tổng thống của chính phủ Việt Nam Cộng hòa. Bảo Đại phải lưu vong sang Pháp. Mỹ bắt
đầu viện trợ cho Ngô Đình Diệm để xây dựng cải cách điền địa,[27] cũng
như củng cố quân đội để giữ vững chính phủ thân Mỹ. Tuy nhiên, chính phủ Ngô
Đình Diệm đã tổ chức đàn áp chính trị và tôn giáo khiến hàng trăm nghìn người
thiệt mạng. Vào năm 1959, số quân Mỹ tại miền Nam Việt Nam chỉ vào khoảng vài nghìn
người, dưới hình thức là các "cố vấn" cho chính phủ Ngô Đình Diệm.
Tuy nhiên những xáo trộn chính trị vào cuối thập niên 1950 tạo nên sự bất ổn lớn trong
xã hội miền Nam. Chính phủ Việt Nam Cộng hòa bắt đầu thực thi những
chính sách "Tố cộng, Diệt cộng", nhiều cuộc thảm sát
xảy ra như Vĩnh Trinh, Hướng Điền (Quảng Trị),
ở nhà tù Phú Lợi (tàn sát hàng nghìn tù nhân
tình nghi là người cộng sản hoặc thân cộng bằng cách bỏ độc vào cơm ăn, nước
uống). Các cuộc biểu tình của Phật giáo vốn
chiếm số đông trong các tầng lớp dân chúng cũng bị đàn áp, gây ra mâu thuẫn tôn
giáo sâu sắc.
Từ năm 1959, tổ chức Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam
Việt Nam ra đời và được chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hậu thuẫn
nhằm kêu gọi chính phủ Ngô Đình Diệm tổ chức Tổng tuyển cử thống nhất đất nước.
Đầu thập niên 1960, lực lượng vũ trang của Mặt trận
này là Quân Giải phóng miền Nam được
thành lập và tổ chức bảo vệ các cơ sở chính trị cũ của Việt Minh cũng
như bảo vệ người dân trước sự đàn áp của chính quyền Diệm. Mặt trận đã kiểm
soát một khu vực rộng lớn ở nông thôn miền nam, và mở nhiều vụ tấn
công vào các căn cứ đối phương. Trước đó, Hoa Kỳ đã hỗ
trợ tài chính, vũ khí và
cố vấn cho chính phủ Ngô Đình Diệm từ năm 1954 để ngăn chặn sự lớn mạnh của
Việt Minh tại miền Nam (do tập kết chính trị được phép tiến hành tại chỗ nên
các cơ sở chính trị của Việt Nam không phải ra Bắc cùng Quân đội Nhân dân Việt Nam).
Hoa Kỳ tăng
cường viện trợ cho Việt Nam Cộng hòa và gửi 17.500 nhân viên
quân sự đến Việt Nam dưới danh nghĩa "cố vấn". Tuy nhiên, những mâu
thuẫn giữa chính phủ Ngô Đình Diệm với phật giáo Việt Nam, việc chống quân Giải phóng miền Nam không
đạt mục tiêu và thái độ không phục tùng của Ngô Đình Diệm, Hoa Kỳ quyết
định loại bỏ Ngô Đình Diệm bằng cách ủng hộ Quân lực Việt Nam Cộng hòa tiến hành
đảo chính. Tướng lĩnh Quân lực Việt Nam Cộng hòa đảo chính và ám sát Ngô Đình
Diệm ngày 1 tháng 11 năm 1963, chấm dứt nền Đệ Nhất Cộng hòa và
thành lập nền Đệ Nhị Cộng hòa. Sau sự kiện này Hoa Kỳ
tuyên bố sẽ tiếp tục hỗ trợ quân sự và kinh tế cho Việt Nam Cộng hòa. Tuy nhiên, tình hình chính
trường miền Nam sau đảo chính hết sức hỗn loạn, chính phủ Việt Nam Cộng hòa bên bờ vực sụp đổ.
Trên chiến
trường, Quân lực Việt Nam Cộng hòa liên tiếp
thất bại trong chiến lược chiến tranh đặc biệt. Để cứu vãn tình thế, sau
khi dựng lên Sự kiện Vịnh Bắc Bộ vào tháng 4 năm 1964, Tổng thống Mỹ Johnson có cớ ra Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ,
theo đó gửi quân đội Mỹ đến Việt Nam trực tiếp tham
chiến. Bắt đầu từ tháng 3 năm 1965 lần lượt các đoàn quân được chuyển tới chiến
trường Việt Nam cùng với khoảng 20.000 "cố vấn" đã có từ trước, số
lượng quân đội Mỹ lên tới khoảng 540.000 người vào thời điểm năm 1968. Chiến
tranh bùng nổ ác liệt năm 1964 ở khu vực Nam Việt Nam, các vùng biên giới
với Campuchia và Lào, và các trận
không kích của Mỹ đánh vào miền Bắc Việt Nam. Một bên là Quân lực Việt Nam Cộng hòa, Hoa Kỳ và
các đồng minh của Hoa Kỳ gồm Hàn Quốc, Thái Lan, Úc, New Zealand, Philippines tham
chiến trực tiếp. Một bên là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam
Việt Nam tham chiến, còn Liên Xô và Trung Quốc chỉ
cung cấp viện trợ quân sự và huấn luyện.
Sau giai đoạn
đảo chính liên tiếp, năm 1967, Nguyễn Văn Thiệu lên làm Tổng thống
nền Đệ nhị Cộng hòa của Việt Nam Cộng hòa. Ở miền Bắc, Lê Duẩn là
lãnh đạo của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sau khi Chủ
tịch Hồ Chí Minh qua đời vào năm 1969.
Đầu năm 1968, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam và
nhân dân địa phương mở cuộc tổng tấn công Chiến dịch Tết Mậu Thân vào hầu hết
các thành phố chính ở miền Nam Việt Nam, tuy thất bại về mặt chiến thuật nhưng đã đạt được mục đích đề ra: khiến
cho Chính phủ và dân chúng Mỹ mất lòng
tin vào khả năng chiến thắng của quân đội Mỹ ở Việt Nam cũng
như buộc Chính phủ Mỹ phải ngồi đàm phán
với Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt
Nam. Tới tháng 11 năm 1968, Johnson tuyên
bố dừng hoàn toàn "tất cả cuộc không kích, pháo kích và hải chiến với Bắc
Việt Nam" và đồng ý ngồi vào đàm phán. Tuy nhiên, 1 năm sau, Tổng thống kế
nhiệm Richard Nixon thông báo Mỹ quay
trở lại, Nixon và cố vấn Henry Kissinger cho
ra đời chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh". Vào tháng 6 năm 1969, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam
Việt Nam tuyên bố thành lập Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.
Cùng với chiến sự ở chiến trường, cả hai bên đều tìm kiếm giải pháp chấm dứt
chiến tranh thông qua các cuộc hội đàm ở Paris. Nội dung đàm phán
được thực hiện qua các phiên họp kín giữa Hoa Kỳ và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, vốn là 2 bên
thực sự điều khiển cuộc chiến (2 đoàn còn lại là Việt Nam Cộng hòa và Cộng hòa miền Nam Việt Nam chỉ tham
gia cho có đủ danh nghĩa). Mãi đến tháng 1 năm 1973, Hiệp định Hòa bình Paris mới được ký giữa
4 bên, sau thất bại nặng nề của Mỹ trong các cuộc không kích vào Hà Nội, Hải Phòng và
các thành phố khác ở miền Bắc Việt Nam do không lực Hoa Kỳ tiến hành cuối năm 1972.
Tháng 1 năm
1974, Trung Quốc đã tấn công vào quần đảo Hoàng Sa lúc đó đang do chính
quyền Việt Nam Cộng hòa kiểm soát và chiếm đóng
hoàn toàn quần đảo này.
Sau Hiệp định Paris 1973, quân viễn chinh Mỹ rút
khỏi Việt Nam – theo đúng điều khoản đầu tiên của hiệp định là công nhận
sự "độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ" của
Việt Nam. Các điều khoản khác là đình chiến và giữ lãnh thổ của mỗi bên trước
khi đình chiến, tổng tuyển cử để xác định chính quyền tương lai ở miền Nam. Hiệp định nói rõ Hoa Kỳ phải triệt
thoái quân hoàn toàn trong vòng 60 ngày. Mặc dù đã có hiệp định nhưng Chiến tranh Việt Nam vẫn tiếp diễn
do Quân lực Việt Nam Cộng hòa vi phạm
hiệp định. Tiêu biểu, ngay khi Hiệp định có hiệu lực, QLVNCH đã tấn công cảng Cửa Việt của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam.
Với sự rút quân của Hoa Kỳ cùng với những điểm yếu nội tại của mình, Quân lực Việt Nam Cộng hòa không thể
tòn tại được lâu. Đến giữa tháng 3 năm 1975, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam mở
cuộc tấn công ở Tây Nguyên,
khởi đầu những chiến dịch nối tiếp nhau. Quân Việt Nam Cộng hòa thất bại liên
tục, để mất Tây Nguyên rồi Huế, Đà Nẵng sau
chưa đầy 1 tháng.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam giành
được quyền kiểm soát Sài Gòn, chính phủ của Tổng thống Dương Văn Minh của Việt Nam Cộng hòa tuyên bố đầu hàng Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt
Nam.
Thời kỳ đầu sau thống nhất (1976–1986)
Bài chi tiết: Chiến dịch phản công biên
giới Tây-Nam Việt Nam; Chiến tranh biên giới Việt-Trung,
1979; và Xung đột biên
giới Việt Nam-Trung Quốc 1979-1990
Ngày 25 tháng 4 năm 1976, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa miền Nam Việt Nam tổ
chức Tổng tuyển cử để thống nhất về mặt nhà nước thành
một quốc gia có tên chính thức là Cộng hòa Xã hội
chủ nghĩa Việt Nam. Năm 1977, Việt Nam trở thành
thành viên của Liên Hợp Quốc.
Tuy nhiên, do
những nguyên nhân cả chủ quan lẫn khách quan như: chủ trương thống nhất mọi mặt
theo tiêu chuẩn miền Bắc (thí dụ, kế hoạch xã hội hóa toàn bộ kinh tế miền Nam nhằm hợp nhất với
kinh tế miền Bắc); các cuộc tấn công liên tục vào Nam bộ của quân đội Khmer Đỏ,
thiên tai và lũ lụt năm 1977 và 1978, Trung Quốc tấn công
vào các tỉnh biên giới phía Bắc, di chứng chiến tranh như chất độc da cam, bom mìn chưa nổ,... đã làm cho
nền kinh tế quốc gia rơi vào khủng hoảng. Sự đe dọa của chiến tranh, đời sống
sút kém gây ra một làn sóng người vượt biên ra nước ngoài (thuyền nhân) bắt đầu từ năm 1978, chủ yếu là người Hoa.
Đầu thập niên 1980, khủng hoảng kinh tế – xã hội ở
Việt Nam trở nên gay gắt trầm trọng, tỉ lệ lạm phát lên
đến 774,7% vào năm 1986.
Những khủng hoảng này đã gây sức ép đổi mới cả về chính trị và
quản lý kinh tế.
Sau chiến tranh Việt Nam, Campuchia nhiều
lần xâm phạm lãnh thổ của Việt Nam dù cho Việt Nam đã có nhiều động thái để duy
trì hòa bình. Tháng 5 năm 1975, Khmer Đỏ đã
tấn công đảo Phú Quốc và Thổ Chu của Việt Nam. Từ năm 1975–1978, tranh chấp và xung
đột biên giới xảy ra thường xuyên, với sự hậu thuẫn của Trung Quốc,
quân đội Khmer Đỏ nhiều lần tiến hành các cuộc đột kích vào sâu trong lãnh thổ
Việt Nam, theo thống kê, có khoảng 30.000 thường dân và hàng nghìn quân lính
Việt Nam bị quân đội Khmer Đỏ giết hại trong các cuộc tấn công dọc biên giới
trong thời gian này.
Vào tháng 12 năm 1978, quân Khmer Đỏ mở
các cuộc tấn công lớn vào các tỉnh biên giới từ Tây Ninh đến Kiên Giang,
thị xã Hà Tiên bị chiếm. Quân đội Việt Nam tổ chức phản công,
tới ngày 7 tháng 1 năm 1979, họ tiến quân vào thủ
đô Phnom Penh đánh đuổi Khmer Đỏ.
Trước việc Khmer Đỏ tổ chức diệt chủng ở Campuchia và tấn công xâm lược vào
lãnh thổ của Việt Nam, quân đội Việt Nam buộc phải tiến hành can thiệp. Ngày 8
tháng 1, với sự hậu thuẫn của Việt Nam, Hội đồng Nhân dân Cách mạng Campuchia
được thành lập do Heng Samrin làm chủ tịch. Khoảng 10 ngày sau, hội đồng
này ký hiệp ước với Việt Nam, hợp thức hóa sự hiện diện của quân đội Việt Nam trên đất Campuchia.
Tới năm 1989,
quân đội Việt Nam rút về nước sau khi chính quyền của Campuchia ổn định, lực
lượng diệt chủng bị đẩy lùi.
Sự kiện Việt Nam
phản công và lật đổ chế độ Khmer Đỏ ở Campuchia là
cái cớ để Trung Quốc, vốn ủng hộ chế độ Khmer Đỏ, có lý do tấn công xâm
lược Việt Nam, với tuyên bố của Chủ tịch Trung Quốc là Đặng Tiểu Bình: "Việt Nam là côn đồ,
phải dạy cho Việt Nam một bài học". Ngày 17 tháng 2 năm 1979, với lực lượng khoảng
400.000 quân, Trung Quốc đã bất ngờ tấn công vào các tỉnh biên giới phía Bắc
của Việt Nam từ Quảng Ninh tới Lai Châu,
sau 3 tuần đã chiếm được thủ phủ các
tỉnh này. Sau sự yếu thế ban đầu, Việt Nam đã tổ chức phản công lại và cùng với
những quân đoàn thiện chiến được chuyển từ chiến trường Campuchia ra đã dần
giành lại được lợi thế. Tới ngày 18 tháng 3 năm 1979, Trung Quốc tuyên bố rút
quân khỏi những vùng biên giới mà họ đánh chiếm được.
Sự kiện này đã
gây nên cuộc khủng hoảng "Hoa kiều" ở trong nước. Đầu thập niên 1980, nhiều người gốc Hoa do lo sợ chiến tranh giữa
hai nước nên đã chạy khỏi Việt Nam về Trung Quốc, hoặc trở thành "thuyền nhân"
chạy sang nước khác. Cuộc chiến này cũng đưa tới việc cắt đứt quan hệ ngoại
giao giữa hai nước, hơn 13 năm sau, tới năm 1992, hai nước mới bình
thường hóa lại quan hệ ngoại giao.
Cũng trong thời
gian này, tháng 3 năm 1988, Trung Quốc sử
dụng tàu chiến để tấn công các tàu công binh của phía Việt Nam,
mở cuộc hải chiến vào các bãi đá Cô Lin, Len Đao, Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa và chiếm đóng Gạc Ma, phía Việt Nam bảo vệ được bãi Cô Lin và Len Đao thành
công.
Thời kỳ đổi mới (1986–nay)
Bài chi tiết: Đổi Mới
Năm 1986, Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam VI tiến
hành chính sách "Đổi Mới", đứng đầu là ông Nguyễn Văn Linh, để hợp lý hóa cơ cấu hành
chính, cải cách cơ cấu Đảng, chính quyền pháp quyền, dân chủ hơn, cải cách kinh
tế theo hướng kinh tế thị trường với định hướng Xã hội
chủ nghĩa.
Công cuộc đổi
mới được phát hành toàn diện, tình hình kinh tế đã được cải thiện đáng kể, từ
một nước nhập khẩu và nhận viện trợ của
nước ngoài thành nước xuất khẩu.
Trước 1989,
Việt Nam nhập khẩu lương thực nhưng
từ năm 1989, Việt Nam bắt đầu xuất khẩu 1–1,5 triệu tấn gạo mỗi
năm; và tăng dần hàng năm: 4,5 triệu tấn (năm 2004), 4,9 triệu tấn
(năm 2005),
đứng thứ 2 thế giới về xuất khẩu gạo. Lạm phát giảm dần (đến năm 1990 còn 67,4%) và
năm 2005 lạm phát chỉ còn 8,5%.
Trong thời
gian 1991–1995, nhịp độ tăng bình
quân hàng năm về tổng sản phẩm trong nước (GDP) đạt 8,2%.
Đến tháng 6 năm 1996, đầu tư trực tiếp
của nước ngoài đạt trên 30,5 tỷ USD. Lạm phát giảm từ 67,1%
(1991) xuống còn 12,7% (1995) và 4,7% (1996).
Năm 2004, Việt Nam đã
đạt được mức tăng trưởng là 7,7% cao hơn mức tăng trưởng năm trước và đứng thứ
2 trong khu vực, sau Singapore. (Tổng sản phẩm quốc nội đạt 35 tỷ USD,
khoảng bằng GDP của bang Mecklenburg-Vorpommern của Đức).
Sự phát triển bền vững được thể hiện qua sự tăng trưởng của kim ngạch xuất khẩu
(tăng 30%) cũng như sự tăng trưởng của sản xuất công nghiệp và xây dựng
(10,2%). Năm 2005, tăng trưởng GDP của Việt Nam là
8,5%.
Đến nay, Việt
Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 167 nước, có quan hệ buôn bán với
trên 100 nước. Các công ty của hơn 70 nước và vùng lãnh thổ đã
đầu tư trực tiếp vào Việt Nam.[cần dẫn nguồn]
Năm 1995, Việt Nam đã
bình thường hóa quan hệ với Mỹ,
và tiếp đó gia nhập ASEAN, APEC,
thành viên diễn đàn ASEM.
Ngày 7 tháng 11 năm 2006, đã trở thành thành
viên thứ 150 của WTO.
Ngày 11 tháng 1 năm 2007, Việt Nam chính
thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) sau
11 năm đàm phán.[28] Vào
ngày 16 tháng 10 năm 2007, Việt Nam đã
được bầu làm một trong các thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc nhiệm
kỳ 2008–2009. Ngay sau khi gia
nhập WTO,
nền kinh tế Việt Nam đã tăng trưởng chậm lại
do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm
2008.[29] Điều
này cũng đặt ra yêu cầu cho Đảng Cộng sản Việt Nam phải ngăn chặn,
khắc phục triệt để một bộ phận cán bộ, Đảng viên suy thoái tư tưởng chính
trị, đạo đức lối sống và xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, song
song với việc đề cao cảnh giác các thế lực thù địch[30].
Đến năm 2015, kinh tế Việt Nam đã bắt đầu có những dấu
hiệu hồi phục mạnh mẽ.[31]
Về các tác động
ngoại cảnh, các sự kiện tranh chấp ở biển Đông như tàu địa chấn
Bình Minh 02 bị hải giám Trung Quốc cắt cáp, Vụ giàn khoan Hải Dương 981 và
việc Trung Quốc xây đảo nhân tạo ở biển
Đông là các sự kiện chính ảnh hưởng đến tình hình chính trị Việt Nam hiện nay.[32] Điều
này thúc đẩy Việt Nam tiếp tục đóng góp nhiều hơn vào việc hình
thành Cộng đồng Kinh tế ASEAN và hợp tác
toàn diện với Hoa Kỳ,[33] ký
các Hiệp định thương mại tự do với Nhật Bản, Hàn Quốc và Liên minh châu Âu.[34]
Tham gia Cộng đồng Kinh tế ASEAN
Ngày 31 tháng 12 năm 2015, Việt Nam chính
thức tham gia thành lập Cộng đồng Kinh tế ASEAN – ASEAN Economic Community,
viết tắt AEC, gồm 10 quốc gia thành
viên.[35] AEC sẽ là cơ hội quý báu để Việt Nam
đẩy mạnh xuất khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài, nhanh chóng bắt nhịp với
xu thế và trình độ phát triển kinh tế của
khu vực và thế giới.
Tuy nhiên, bên
cạnh những thuận lợi lớn, AEC ra đời, các doanh nghiệp Việt Nam cũng sẽ phải
đối mặt với nhiều thách thức. Việc cạnh tranh về dịch vụ đầu
tư của các nước ASEAN sẽ dẫn đến một số ngành, doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất,
thậm chí rút khỏi thị trường. Các nước sẽ mở rộng thị trường xuất khẩu cho hàng hóa của Việt Nam nhưng
đồng thời Việt Nam cũng phải mở cửa cho hàng hóa cạnh
tranh của các nước trong ASEAN.
Việc tham
gia AEC cũng sẽ là cơ hội lớn để Việt Nam đẩy
mạnh cải cách thể chế, hiện đại hóa nền kinh tế, nâng cao trình độ phát triển.
Tuy nhiên, trong những năm tới, Việt Nam cũng
đứng trước sức ép rất lớn về cải cách thể chế, tái cơ cấu kinh tế, nâng cao
trình độ khoa học – công nghệ và
năng lực cạnh tranh, trong bối cảnh ASEAN nhảy vọt từ nấc Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (AFTA) lên
nấc thang Cộng đồng Kinh tế (AEC). Hiện nay, trình
độ phát triển của Việt Nam còn kém xa nhiều quốc gia trong ASEAN như: Singapore, Malaysia, Thái Lan,...
Do vậy, sức ép cải cách đặt
ra với Việt Nam là rất lớn.
Xếp hạng năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam do Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) công
bố cho năm 2015–2016, Việt Nam đứng
rất thấp trong khu vực và chỉ đứng thứ 56 trên tổng số 144 nền kinh tế.[36] Nền quản lý hành chính lạc hậu, nhiều thủ tục
rườm rà gây ảnh hưởng tiêu cực nghiêm trọng đến năng lực cạnh tranh, chi phí về thời gian và tiền bạc của doanh nghiệp Việt Nam, đơn cử như việc
các doanh nghiệp Việt Nam cần đến 872
giờ/năm để đóng thuế trong khi con số bình quân của dịch vụ đó
ở các nước ASEAN-6 chỉ là 172 giờ/năm. Thực tế này cho thấy, cải cách thể chế,
tái cơ cấu kinh tế, nâng cao trình độ khoa học – công nghệ và
năng lực cạnh tranh đang là đòi hỏi cấp thiết đặt ra cho Việt Nam trong
giai đoạn tới.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét