Khi
đọc những câu hỏi “Vì sao đã thống trị Việt Nam 
hơn ngàn năm mà cuối cùng Trung Quốc vẫn không thể đồng hóa Việt Nam Nam 
Họ
đã chất vấn nhau, đại loại thế này: Hơn một nghìn năm, trước khi nhà Tống lên
ngôi, Giao Châu là thuộc Trung Hoa, dù chị em họ Trưng có nổi dậy cũng chỉ mấy
năm là dẹp yên. Thế mà vì sao từ đời Tống trở đi các triều đại Trung Hoa không
thể thu phục nổi Việt Nam Nam Nam Nam 
Là
người Việt Nam 
Bách Việt là ai và ở
đâu?
Vào
thời thượng cổ, từ đời nhà Thương 商朝 (khoảng 1600-1046 TCN), trong văn tự thì chỉ có
một chữ Việt 戉 (nghĩa là cái rìu), cũng là tên chung cho tộc
người ở phía Nam 
Trong
Hán ngữ cận, hiện đại, hai chữ Việt này (có thể từ sau đời Minh) thì dùng có
phân biệt rõ ràng. Chữ Việt bộ tẩu 越 là ghi tên tộc Việt của nước Việt có
lãnh thổ ở vùng Bắc Triết Giang, ngày nay là vùng Thượng Hải, Ninh Ba, Thiệu
Hưng (Cối Kê 會稽 xưa). Một loại ca kịch cổ ở vùng này vẫn còn tên
là Việt Kịch 越剧. Chữ Việt bộ tẩu này cũng là tên của
tộc Nam Việt (Triệu Đà) Âu Việt và Lạc Việt (Việt Nam 
ngày nay), Mân Việt (Phúc Kiến), Điền Việt (Vân Nam 
Bởi
vì xưa có đến hàng trăm tộc Việt, cho nên sử sách gọi chung là Bách Việt 百越
hoặc 百粤. Tên gọi Bách Việt xuất hiện trong văn sách lần
đầu tiên
trong bộ Lã thị Xuân Thu 吕氏春秋 của Lã Bất Vi 呂不韋 (291–235 TCN) thời nhà Tần.
Trong
lịch sử Trung Hoa, toàn bộ vùng đất Giang Nam (tên gọi vùng Nam Sông Dương Tử),
rộng bảy tám ngàn dặm từ Giao Chỉ đến Cối Kê, từ trước thời Tần Hán đều là nơi
cư ngụ của các tộc Bách Việt.
Thời
nhà Hạ gọi là Vu Việt 于越, đời Thương gọi là Man Việt 蛮越
hoặc Nam Việt 南越, đời Chu  gọi là
Dương Việt 扬越, Kinh Việt 荆越, từ thời Chiến quốc gọi là Bách Việt百越.
Sách
Lộ Sử của La Bí (1131 – 1189) người đời Tống viết3: Việt thường, Lạc Việt, Âu
Việt, Âu ngai, Thả âu, Tây âu, Cung nhân, Mục thâm, Tồi phu, Cầm nhân, Thương
ngô, Việt khu, Quế quốc, Tổn tử, Sản lí (Tây Song Bản Nạp), Hải quý, Cửu khuẩn,
Kê dư, Bắc đái, Phó cú,  Khu ngô (Cú ngô)…, gọi là Bách Việt.
Hán Hóa Bách Việt –
Giai đoạn từ thượng cổ đến trước thời Tần-Hán
Gọi
Hán hóa chỉ là để cho tiện thôi, thực ra không đúng, vì lúc này làm gì đã có
nhà Hán. Hai nước Ngô – Việt là những tộc Bách Việt được ghi chép rất sớm trong
sử sách. Nước Ngô 吴国,còn gọi là Cú Ngô 句吴, Công Ngô 工吴,攻吾…
lập quốc vào thời Chu Vũ Vương (thế kỷ 12 TCN), kinh đô ở Tô Châu 苏州 ngày nay, từ thủy tổ là Ngô Thái Bá 吳太伯 truyền đến Phù Sai夫差
thì bị diệt vong bởi nước Việt (473 TCN). Thực ra ghi chép sớm nhất trong sử sách là Vu
Việt 于越, tiền thân của nước Việt 越 国
thời Chiến quốc. Nước Việt đã tồn tại muộn nhất cũng từ thời nhà Thương, không
tham gia vào sự kiện Vũ Vương Phạt Trụ (1046 TCN), nhưng sử có ghi là khá lâu
trước đó đã làm tân khách của Chu Thành Vương 周成王(1132
– 1083 TCN). Nước Việt đã có một văn hóa dân tộc đặc sắc, gọi là Văn hóa Mã
Kiều 馬橋文化, mà các chứng tích đã tìm thấy khi khai quật di
chỉ Thái Hồ 太湖地區. Nước Việt định đô ở Cối Kê 會稽
(Thiệu Hưng ngày nay) truyền đến đời Câu Tiễn句踐 (496 – 464 TCN) thì bành trướng lên
phía Bắc, năm 473 TCN sau khi diệt nước Ngô, mở rộng bờ cõi Bắc chiếm Giang Tô 江蘇,
Nam đoạt Mân Đài 閩台 (tức Phúc Kiến ngày nay), Đông giáp  Đông
Hải 東海, Tây đến Hoàn Nam 皖南 (phía Nam An Huy ngày nay), hùng cứ
một cõi
Đông Nam. Đến năm 306 TCN, nước Sở 楚國 nhân nước Việt, triều vua Vô Cương,
nội loạn, bèn liên kết với nước Tề 齊國 tiến chiếm nước Việt, đổi thành quận
Giang Đông, nước Việt tuyệt diệt và bị Sở hóa từ đó. Những sự kiện này được ghi
chép tỉ mỉ trong bộ sử Ngô Việt Xuân Thu 吳越春秋 do Triệu Diệp 赵晔 thời Đông Hán soạn (~năm 25). Các nhà
khoa học thế giới ngày nay cũng đã phục dựng đầy đủ lịch sử này, ví dụ xem Eric
Henry4.
Đến
đây cần nói rõ, Sở là gốc Hoa Hạ (sau này gọi là Hán) hay là Bách Việt, hiện
còn nhiều tranh cãi. Dân Hoa Hạ (chính là tộc Hán sau này) nhận mình là con
cháu của Tam Hoàng, Ngũ Đế. Tam Hoàng thì rất thần tiên, mơ hồ, Ngũ Đế có vẻ cụ
thể hơn. Theo Sử Ký của Tư Mã Thiên5 thì đó là năm chi: Hoàng Đế (黃帝),
Chuyên Húc (顓頊), Đế Cốc (帝嚳), Đế Nghiêu (帝堯),
Đế Thuấn (帝舜). Dân nước Sở tự nhận thuộc chi Chuyên Húc, họ
Cao Dương 高阳 tức là tộc Hoa Hạ (Hán). Đất nước Sở nằm ở đoạn
giữa sông Trường Giang, vùng Nam Bắc Hồ Động Đình, quen gọi là vùng Kinh Sở (Hồ
Bắc – Hồ Nam của Trung Hoa ngày nay). Vùng Kinh Sở nằm chồng lấn phía Nam lưu vực sông
Hoài sông Vị của dân Trung Nguyên Hoa Hạ. Đó là vùng đất đầu tiên mà một chi
của dân Hoa Hạ (chi Chuyên Húc) thiên di xuống. Nhà thơ Khuất Nguyên (340 – 278
TCN) người nước Sở, mở đầu bài thơ Ly Tao đã viết6: Bá Dung nhớ cha ta thuở nọ,
/Vốn dòng vua về họ Cao Dương (Nhượng Tống dịch thơ). Trước khi con cháu Cao
Dương nam thiên đến đây, dân bản địa là tộc nào? Nước Sở lập quốc vào cuối đời
Thương đầu đời Chu  (1042 TCN). Sách Sử Ký –
thiên Sở Thế gia viết rằng người Sở là dân Man (Sở Man), vua Sở nhận mình là
dân Man Di7. Man là chữ người Hoa Hạ gọi dân miền Nam Nam Chu  rồi. Có thể tạm gọi đó là đợt đồng hóa thứ nhất.
Sự
Trung Hoa hóa theo thế lực nước Sở, bành trướng đến Trùng Khánh, Quý Châu, về
sau sang tiếp phía Đông, trở thành một trong thất hùng thời Chiến quốc. Đặc
biệt là quý tộc Sở cổ đều có họ Hùng (熊 – con gấu), vua Sở là Hùng Vương,
phải chăng có liên hệ gì đó đến Hùng Vương ở Việt Nam, chỉ khác chữ Hán viết 雄 –
hùng mạnh, (trong sử Trung Hoa cổ không tìm thấy ghi Hùng Vương 雄
này, có lẽ đây là do các nhà Nho Việt Nam viết lại sau này!). Tóm lại đến thời Khuất
Nguyên, rồi sau đó là lúc Sở diệt Việt phía Đông, thì Sở đã hoàn toàn biến
thành dân Trung Hoa, và quá trình Trung Hoa hóa Ngô – Việt là quá trình đồng
hóa thứ hai, tiến hành thông qua nước Sở.
Các
nhà khoa học Nhật, Mỹ, đã có nhiều phát hiện, chứng minh nền văn minh Ngô Việt
sau khi nước Việt bị diệt và Trung Hoa hóa (đúng hơn là Sở hóa), đã theo dòng
người Ngô Việt chạy ra biển sang Nhật Bản (tiếng Nhật Bản đọc Hán tự theo kiểu
nước Ngô, nên gọi là ごおん-Go On- Ngô âm 呉音). Nền văn minh đó chủ yếu theo bộ
phận tinh hoa của dân Ngô Việt chạy xuống phía Nam hợp lưu cùng Việt bản địa,
thành ra văn minh Việt kéo từ Lĩnh Nam (phía Nam dãy Ngũ Lĩnh – tức Bắc Lưỡng
Quảng ngày nay) đến Giao Chỉ. Theo phát hiện của Jerry Norman và Tsu-lin Mei
(Washington University và Cornell University) thì nhiều từ cổ của tộc Việt nước
Ngô Việt hiện vẫn thông dụng trong tiếng Việt ngày nay, ví dụ các từ: chết; chó,
đồng (trong đồng cốt), sông, khái (hổ), ngà (trong ngà voi), con (trong con
cái), ruồi, đằm (trong đằm ướt), sam (con sam), biết; bọt , bèo…8 Điều này
chứng tỏ rằng dân Lạc Việt ít nhiều có cùng huyết thống với dân Ngô Việt xưa.
(Xem bản đồ).
Hán hóa Bách Việt-
Giai đoạn sau thời Tần-Hán
Cho
đến trước khi Tần Thủy Hoàng diệt được sáu nước, dẹp bỏ nhà Chu, thống nhất
Trung Hoa (221 TCN) thì dân Hoa Hạ (Hán tộc) chỉ chiếm lãnh và đồng hóa được
dải đất từ Hoàng Hà xuống đến Ngũ Lĩnh9, còn từ Ngũ Lĩnh trở về Nam (Lưỡng
Quảng, Giao Chỉ, Hải Nam… gọi tắt là Lĩnh Nam) thuộc về Âu Việt (gọi chung Tây
Âu và Đông Âu) và Lạc Việt. Từ Kinh Sở trở về Tây, Tây Nam  (Vân Nam 
Vùng
Bách Việt phía Tây Nam này (Vân Nam) thì mãi đến thế kỷ 12 còn độc lập, dù
người Hán có tiến hành nhiều cuộc chiến tranh xâm chiếm lẻ tẻ. Chỉ sau khi Mông
Cổ chiếm Đại Lý (1253), Vân Nam, rồi sau đó chiếm nốt Trung Hoa, lập ra nhà
Nguyên, thì Vân Nam mới nhập vào Trung Hoa. Năm 1381, Minh Thái Tổ mới bình
định xong Vân Nam Nam 
Vùng
Lĩnh Nam Nam 
Luận
theo sử sách chép, có thể thời tiền Tần thì Âu và Lạc là hai chi Việt khác
nhau. Thời kỳ chiến đấu chống lại Tần thì có thể hai chi Việt này liên minh lại
với nhau thành một khối Âu Lạc. Lúc đó trung tâm là ở Nam Trung Hoa, vùng Vũ
Minh Mã đầu (Nam Ninh – Quảng Tây ngày nay). Chỉ sau khi Hán Vũ Đế bình Nam
Việt của Triệu Đà thì hai chi này mới lại phân chia ra, và trung tâm di về vùng
quanh Hà Nội ngày nay.
Đồng
thời với nước Lạc Việt có nước Tây Âu hay Âu Việt mà người đứng đầu trong sử
chép là Thục Phán. Tuy nhiên Âu Việt lập quốc lúc nào và Thục Phán từ đâu ra
thì sử sách không ghi rõ. Rất nhiều ý kiến cho rằng Thục Phán là hậu duệ của
vương triều nước Thục. Quả thực sử có chép một quốc gia tên là Thục Quốc, ở Tây
Nam Trung Hoa ngày nay. Thường Cừ (347)người đời Tấn viết trong Sách “Hoa
Dương Quốc Chí”14: “Nước Thục Đông giáp nước Ba , Nam 
Lúc
này cũng là thời kỳ theo truyền thuyết là có nước Văn Lang ở phía trung và hạ
lưu sông Hồng (trong cổ sử Trung Hoa không có tên nước Văn Lang, chỉ có tên một
nước là Dạ Lang, liệu có liên quan đến Văn Lang không?), do dòng họ Hùng làm
vua. Việc Thục Phán là hậu duệ nước Thục, cũng như nước Văn Lang có vua Hùng
trị vì 18 đời trong sử An Nam là ghi lại theo truyền thuyết. Tuy nhiên Thục
Vương Tử tên Phán, Hùng Vương vua Lạc Việt, Thục diệt Hùng Vương chiếm lãnh
thổ, xưng là An Dương Vương thì có ghi trong sử cổ Trung Hoa từ đầu Công
nguyên.
Theo
quyển “Việt sử lược”18, của tác giả không rõ tên, có lẽ là người Việt Nam khắc
in ở Trung Hoa vào quãng cuối Nguyên đầu đời Minh (~1360), có viết về nước Văn
Lang, vua là Đối Vương 碓王, sau bị Thục Phán đánh đuổi, Phán xưng là An
Dương Vương.
Sách
cổ “Thủy kinh chú” dẫn lại lời ghi trong “Giao châu ngoại vực ký” rằng19 “…
Thục Vương Tử dẫn binh tướng ba vạn đánh lại Lạc Vương 雒王,
Lạc hầu 雒侯, thu phục các Lạc Tướng. Rồi đó Thục Vương Tử
xưng là An Dương Vương”. Sách “Cựu Đường thư” dẫn lại “Nam Việt chí” chép20
“Đất Giao Chỉ vô cùng màu mỡ, xưa có vua xưng là Hùng Vương 雄王,
có Lạc hầu phò tá. Thục Vương Tử dẫn quân tướng ba vạn tiến đánh,
diệt được Hùng Vương. Thục xưng làm An Dương Vương, cai trị Giao Chỉ”. Như vậy
thì sử sách có ba tên gọi cho vua nước Lạc Việt: Lạc Vương, Hùng Vương, Đối
Vương. Có nhiều ý kiến cho rằng ba tên gọi này là một, chính là Lạc Vương, các
tên khác do về sau sao chép nhầm chữ Lạc 雒 của Hán ngữ mà thành21. Dầu sao thì
cũng có hai lý giải về truyền thuyết danh xưng Hùng Vương, một là dòng dõi họ
Hùng Vương nước Sở, hai là Lạc Vương vua của dân Lạc Việt. Dù tên tuổi đúng sai
thế nào,
thì Hùng Vương không chỉ thuần túy là truyền thuyết của Việt Nam 
Tần
diệt Sở, rồi đánh chiếm Lĩnh Nam Nam 
Vì sao Đại Việt
không bị Hán hóa?
Đồng
hóa dân tộc (national assimilation) gồm: 1 – Đồng hóa tự nhiên: đây là một xu
hướng tự nhiên trong tiến trình lịch sử loài người. 2 – Đồng hóa cưỡng chế: sự
cưỡng bức một dân tộc bị trị chấp nhận ngôn ngữ, chữ viết, phong tục, tập quán
của dân tộc thống trị; đây là một tội ác.27 Người Hán đã thực hiện cả hai biện
pháp đồng hóa này hơn một ngàn năm mà Đại Việt vẫn không bị đồng hóa, người
Trung Hoa ngày nay tìm mọi lý lẽ để biện minh nhưng chính họ cũng không thấy
thuyết phục lắm. Chẳng hạn:
*
Việt Nam ở xa Trung Nguyên, núi sông cách trở không tiện đồng hóa. Phản bác
lại: Tại sao Vân Nam 
*
Việt Nam ở phương Nam Nam 
*
Tại vì số lượng người Hán di dân xuống Việt Nam Nam ,
Vân Nam Nam 
Cũng
có một số kiến giải của người Trung Hoa bình thường ngày nay, xem ra cũng ít
nhiều có lý, ví như:
*
Người Kinh có ba nguồn gốc: Người Lạc Việt, Người Thục, Người Hán. Do vậy người
Kinh hấp thụ được tinh hoa của ba chủng tộc nên trở thành một tộc người ưu tú.
*
Người Hán ở Việt Nam Nam 
Nhưng
đó chỉ là những lý do bề ngoài mà những người bình thường có thể nhận thấy
được. Thực ra, theo các nhà chuyên môn, đồng hóa dân tộc là một vấn đề khoa học
lớn, rất nhạy cảm và vẫn chưa có được một lý thuyết nào đứng vững cả, vì vậy
tạm thời không bàn đến lý luận trong bài này. Thông thường đồng hóa dân tộc là
một sự tổng hòa gồm:
*
Đồng hóa chủng tộc, thường được thực hiện bằng một cuộc chinh phục và kẻ chinh
phục hoặc diệt chủng dân bị chinh phục, hoặc xua đuổi dân bị chinh phục để thay
thế bằng cư dân của phía chinh phục, hoặc pha loãng huyết thống.
*
Đồng hóa về văn hóa, tín ngưỡng.
*
Đồng hóa về tổ chức cộng đồng, xã hội.
(Về
vấn đề Văn Hóa, Ngôn Ngữ, Tín Ngưỡng, đều là những yếu tố bảo tồn dân tộc Việt,
xin dành cho bài sau).
Sự
đồng hóa dân tộc sẽ khó được thực hiện.
1.
Nếu một dân tộc có sức sống sinh học và xã hội mãnh liệt thì sự đồng hóa chủng
tộc khó thành công, ví dụ điển hình là dân tộc Do Thái.
2.
Đồng hóa về văn hóa, tín ngưỡng phụ thuộc vào trình độ văn minh của dân tộc.
Một dân tộc mạnh về chinh chiến, có thể chiến thắng trong cuộc chinh phục,
nhưng nếu trình độ văn minh thấp hơn thì sẽ bị kẻ bại trận đồng hóa, điển hình
như tộc Hung Nô, Nữ Chân, Mãn Châu… đều chiến thắng người Hán nhưng lại bị Hán
hóa.
3.
Khi một cộng đồng dân tộc có tổ chức tốt, cố kết các thành viên bền chặt, thì
dân tộc đó rất khó bị đồng hóa.
Nhìn
lại thì thấy người Việt (người Kinh) có đủ cả ba yếu tố 1,2,3: Người Kinh hiện
nay là nơi tập hợp các thành phần ưu tú nhất của Bách Việt, bởi lẽ khi Bách
Việt bị Hán hóa, các thành phần ưu tú, tinh hoa trong xã hội Việt là mục tiêu
tàn sát của người Hán, do đó các thành phần này phải tháo chạy, và nơi dung nạp
họ là mảnh đất cuối trời Bách Việt, tức Việt Nam ngày nay. Hãy xem thí dụ về
ngôn ngữ Ngô Việt còn lưu lại trong tiếng Việt (như đã nói ở trên), đó là một
bằng chứng cho sự dịch chuyển của người Ngô-Việt xuống đây. Vì vậy tộc người
Kinh có sức sống mãnh liệt.
Tinh
hoa của văn minh Bách Việt được cô đọng lại ở người Kinh, chắc chắn không kém
nền văn minh Hoa Hạ. Người Việt dù không có văn tự riêng (hay có mà bị xóa sạch
sau ngàn năm nô lệ) nhưng vẫn phát triển và bảo tồn được ngôn ngữ dân tộc, dù
phải mượn Hán Ngữ để ghi chép, thì thật là một kỳ tích, chẳng kém gì người Do
Thái vẫn giữ được tiếng Do Thái dù bị diệt chủng và xua đuổi hai ngàn năm.
Tổ
chức xã hội của tộc Việt, điển hình là làng xã đã cố kết cộng đồng rất chặt. Tổ
chức nhà nước cũng có rất sớm, từ thời Chiến quốc, do đó rất khó phá vỡ, nó tồn
tại dấu tích sau khi khi đã độc lập. Hãy nhớ đến Hội Nghị Diên Hồng thời Trần
để thấy tinh thần của tổ chức xã hội gắn kết người dân với triều đình chặt chẽ
đến mức nào. Ngay cả một vương triều thất thế, bị truy đuổi như Triều Mạc, cũng
không bán rẻ đất nước cho ngoại bang. Năm 1594, Mạc Ngọc Liễn chiếm giữ Vạn
Ninh, trước khi chết để di chúc cho Mạc Kính Cung: “Nay vận khí nhà Mạc đã hết,
họ Lê lại phục hưng, đó là số trời, dân ta vô tội mà để phải mắc nợ binh đao,
sao lại nỡ thế… Lại chớ nên mời người Minh vào trong nước ta mà để dân ta phải
lầm than đau khổ, đó cũng là tội lớn không gì nặng bằng”28.
Quân
Minh đầu TK 15 cũng khó mà có thể chiếm được Đại Việt làm quận huyện nếu không
có những nhóm quý tộc như nhóm Mạc Thúy, vì quyền lợi riêng bán rẻ dân tộc cho
người Minh. Nên biết Mạc Thúy là hậu duệ của danh nhân Mạc Đĩnh Chi, một đại
thần nhà Trần… Nhà Thanh không thể chiếm Thăng Long nếu không có vua quan bán
nước Lê Chiêu Thống, tiếc thay y lại là dòng dõi của anh hùng dân tộc Lê Lợi…
Than
ôi! truyền thống thì hào hùng rực rỡ, tổ tiên phải đổ bao mồ hôi, xương máu mới
có, nhưng bán rẻ nó đi thì thật dễ dàng. May sao tự ngàn xưa số những kẻ bán rẻ
dân tộc như vậy là vô cùng nhỏ trong cộng đồng người Việt.1
CHÚ DẪN
CHÚ DẪN
1为什么经历了一千多年的统治,中国始终不能同化越南?“Vì sao đã thống trị Việt Nam  hơn ngàn năm mà cuối cùng Trung Quốc vẫn không
thể đồng hóa Việt Nam 
越南人(京族)为何难以同化 “ Người Việt Nam 
2
Có học giả Việt đương thời theo tự dạng vội suy đoán rằng viết như vậy có lẽ
chỉ tộc người vác rìu đi (chạy) săn và tộc  người trồng lúa trong ruộng.
Chứng tỏ thời bấy giờ tộc Việt thuộc văn minh săn bắn và trồng trọt. Có lẽ
không phải đơn giản như vậy. Khảo sát lịch sử văn tự thì thấy rằng Việt 越 và
Việt粵  âm đọc  giống nhau, “Sử ký” viết là 越,
“Hán thư” viết là 粤. Âm đọc 粤 là từ âm đọc của chữ Vu 于,
người cổ đọc 越 là于. Vu 于 viết theo lối chữ triện 篆 là
亏,
hài thanh là chữ vũ 雨-mưa, viết lên trên thành 雩.
Trong “Hán Thư” còn tồn nhiều chữ cổ, nên chữ Việt 越
đều cải viết thành雩, sau theo lối chữ lệ 隶,
chữ khải 楷 mới viết thành ra 粤, tức biến hóa hình chữ vũ 雨
đặt trên chữ Vu亏.
3 “路史” 罗泌 (1131—1189) 宋朝 : 越裳, 雒越, 瓯越瓯皑,  且瓯, 西瓯, 供人, 目深, 摧夫, 禽人, 苍梧, 越区, 桂国, 损子, 产里(西双版纳), 海癸, 九菌, 稽余, 北带,仆句, 区吴(句吳), 是谓百越。
 The
Submerged History of Yuè. By Eric Henry, University  of North
  Carolina 
5 史記-司馬遷
(145 – 86 TCN)
6屈原在《离骚: 帝高阳之苗裔兮,朕皇考曰伯庸- Ðế Cao Dương chi miêu duệ hề, Trẫm
hoàng khảo viết Bá Dung.
7《史记.楚世家》记载: “封熊绎于楚蛮- phong Hùng Dịch ư Sở Man “, “ 熊渠曰: 我蛮夷也不与中国之号谥- Hùng Cừ nói: Ta là dân man di, không
cùng hiệu, thụy của Trung quốc. Hùng Dịch (~1006 TCN) là vua lập ra nước Sở,
Hùng Cừ (~877 TCN) là vua Sở về sau. Sở Man là tên nhà Thương, Chu  gọi dân Kinh Sở bản địa, Man tức là Man Việt, tên tộc
Việt thời nhà Thương.
8
Jerry Norman and Tsu-lin Mei, Monumenta Serica, Vol. 32 (1976), pp.274-301,
Published by: Taylor & Francis, Ltd.
9 五岭
Ngũ Lĩnh-dãy núi phía Nam Trung Hoa chạy qua biên giới các tỉnh Quảng Tây, Hồ
Nam, Giang Tây, Quảng Đông, có năm đỉnh cao (Ngũ lĩnh) là 越城
(Việt Thành)、都庞 (Đô Lung), 萌渚
(Manh Chử), 骑田 (Kỵ Điền), 大庾(Đại Dữu).
10
Chữ Lạc có nhiều cách viết, đều đọc là Lạc. Hai chữ  雒,骆 thường dùng như nhau để chép Lạc Việt
trong sách cổ. Tiếng Bắc Kinh đọc là Luo, Quảng Đông đọc lok, Đời Đường đọc
lak. Nhiều học
giả cho rằng nguồn gốc chữ Lạc là do người Hán ghi âm chữ Lúa, Ló của người
Việt, người Mường mà ra. Người Việt là tộc người có nền văn minh lúa nước.
11《淮南子·人间训:“(秦皇)又以卒凿渠而通粮道,以与越人战,杀西呕君译吁宋。Hoài Nam Tử. Nhân gia huấn: (Tần
Hoàng) cho quân đào kênh thông đường vận lương, rồi đánh người Việt, giết được
vua Tây Âu là Dịch Hu Tống”.
12《史记·南越列传》赵佗上呈汉文帝的“谢罪书”:“且南方卑湿,蛮夷中间,其东闽越千人众号称王,其西瓯骆裸国亦称王。” Triệu Đà dâng thư tạ tội với Hán Văn
Đế: “ đất phương Nam 
13《吕氏春秋·孝行览·本味篇》:“和之美者:阳朴之姜,招摇之桂,越骆之菌。”高诱注:“越骆,国名。菌,竹笋。”  Lã thị Xuân Thu-Hiếu hạnh lãm,
bản vị thiên:” Những thứ hoàn mỹ  là gừng Dương Phác, quế Chiêu Diêu, Khuẩn
(Măng) Việt Lạc” Cao Dụ chú giải:” Việt Lạc là tên nước, Khuẩn là măng tre”.
14 常璩(347)华阳国志-(卷三蜀志): Thường Cừ, “Hoa Dương Quốc Chí”
(quyển 3-Thục Chí): “历夏、商、周,武王伐纣,蜀与焉。其地东接于巴,南接于越,北与秦分,西奄峨嶓。” Trải qua Hạ, Thương, Chu,Vũ Vương
phạt Trụ, cùng có nước Thục. Nước đó đông giáp nước Ba, nam giáp nước Việt, bắc
phân giới với Tần, Tây dựa Nga Ba” (vì vậy cư dân ở đây có thể là người
Khương, Hoa Hạ và Việt-TGN).
#15“华阳国志·蜀志:“周慎王五年秋,秦大夫张仪、司马错、都尉墨等从石牛道伐蜀,蜀王自于葭萌拒之,败绩。王遁走,至武阳为秦军所害,其相、傅及太子退至逢乡,死于白鹿山。开明氏遂亡,凡王蜀十二世 ““Hoa Dương Quốc Chí, thiên Thục
Chí”: “Mùa thu đời Chu Thận Vương thứ năm, các Đại Phu nhà Tần là
Trương Nghi, Tư Mã Thác, Đô úy Mặc v.v theo đường Thạch Ngưu tiến phạt Thục.
Thục Vương thân cùng Gia Mạnh cự địch, bị thất bại. Vương tháo chạy đến Vũ
Dương thì bị quân Tần hại, Thái tử thoái lui về và chết tại núi Bạch Lộc. Dòng
họ Khai Minh, truyền được 12 đời, đến đây bị diệt”. Vũ Dương nay là huyện Bành
Sơn,Tứ Xuyên.
16 叶榆水
17岱依人
18《越史略》卷一载:“周庄王时嘉宁部有异人焉,能以幻术服诸部落,自称碓王,都于文郎,号文郎国。以淳质为俗,结绳为政,传十八世,皆称碓王。越勾践尝遣使来谕,碓王拒之。周末为蜀王子泮所逐而代之。泮筑城于越裳,号安阳王,竟不与周通。” .: Việt sử lược: “thời chu Trang
Vương, ở Gia
Ninh bộ có người tài, dùng xảo thuật thu phục được các bộ lạc, tự xưng là Đối
Vương, đô ở Văn Lang, nước là Văn Lang. Tục lệ thuần hậu, chính sự nghiêm
chỉnh, truyền 18 đời, đều xưng là Đối Vương. Việt Vương Câu Tiễn đã từng đến
dụ, Vương đều từ chối. Vào cuối đời nhà Chu  bị
Thục Vương Tử tên là Phán đánh đuổi,  thay thế trị vì. Phán xây thành Việt
Thường, hiệu là An Dương Vương, tuyệt giao với nhà Chu ”.
19《水经·叶榆水注》中注引《交州外域记》云:“交趾昔未有郡县之时,土地有雒田,其田从潮水上,民垦食其田,因名为雒民。设雒王、雒侯主诸郡县。??后蜀王子将兵三万来讨雒王、雒侯,服诸雒将。蜀王子因称为安阳王。Sách
“Thủy Kinh.Diệp Du Thủy chú”, dẫn theo “Giao Châu Ngoại Vực Ký” viết rằng: Giao
Chỉ thời chưa có quận huyện, đất đai thì có Lạc điền, nước ruộng lên xuống theo
triều, dân làm ruộng sinh sống, nên gọi là Lạc dân. Thiết đặt Lạc Vương, Lạc
hầu cai quản các
quận huyện. ?? về sau Thục vương tử xua quân tướng ba van đánh Lạc Vương, Lạc
Hầu, thu phục các Lạc Tướng. Thục vương tử xưng là An Dương Vương.
20《旧唐书·地理志》则引《南越志》云:“交趾之地,最为膏腴,旧有君长曰雄王,其佐曰雄侯。后蜀王将兵三万讨雄王,灭之。蜀以其子为安阳王,治交趾。Sách “Cựu Đường Thư” dẫn lại “Nam Việt Chí” viết
rằng: Đất Giao Chỉ rất mầu mỡ, xưa có vua gọi là Hùng Vương, phò tá là các Hùng
Hầu. Về sau ba van quân tướng của Thục vương đánh bại Hùng Vương. Con của Thục
Vương xưng là An Dương Vương, cai trị Giao Chỉ.
21
So sánh các sách thì “Giao Châu ngoại vực ký” là cổ nhất, ít nhất là trước đời
Ngụy Tấn (TK3), “Nam Việt Chí” soạn sau thời Bắc Ngụy, còn “Việt sử lược” có lẽ
soạn thời Hồng Vũ (~1358) nhà Minh sau này. Quân Vương của nước Lạc Việt theo
 sách cổ  nhất (“Giao châu ngoại vực ký”) ghi là Lạc Vương 雒王,
sách về sau (Việt sử lược, Nam Việt chí) thì ghi là Đối Vương 碓王,
Hùng Vương 雄王. Một số học giả Trung Hoa và Quốc tế ngờ rằng ba
chữ 碓, 雄, 雒 (bộ thủ “chuy 隹 “)
nguyên chỉ là chữ 雒 (Lạc) do mấy trăm năm sau sao chép nhầm phần các
chữ ghép (chữ các 各thành
chữ thạch 石 hay chữ quăng 厷) mà ra. Tuy nhiên nhiều học giả Viêt Nam  không nhất trí, vì cho rằng các nhà Nho Việt
Nam 
22
Các sách của Việt Nam có nói đến Hùng Vương, An Dương Vương cổ nhất như Lĩnh
Nam Chích Quái 嶺南摭怪, Việt Điện U Linh Tập 粵甸幽靈集 hay Đại Việt sử ký toàn thư 大越史記全書
 thì cũng soạn vào thời Trần, muộn hơn nhiều so với các sách của Trung Hoa
như Giao Châu Ngoại Vực Ký 交州外域记, Thái Bình Ngự Lãm 太平御览. Cho nên các sự tích và tên tuổi như
Hùng Vương, An Dương Vương… chắc là chép lại từ sách Trung Hoa, vì Việt lúc đó
không có chữ viết… Tất nhiên, cũng không loại trừ có những ý kiến khác.
23《交州外域记: “南越王尉佗举众攻安阳王。安阳王有神人皋通,下辅佐,为安阳王治神弩一张,一发杀三百人”: Nam 
24《太平御览》卷348:《日南傳》曰:一發萬人死,三發殺三萬人。佗退,遣太子始降安陽。安陽不知通神人,遇無道理,通去。始有姿容端美,安陽王女眉珠悅其貌而通之。始與珠入庫盜鋸截神弩,亡歸報佗。佗出其非意。安陽王弩折兵挫,浮海奔竄: “Thái Bình Ngự Lãm, quyển 348 dẫn “Nhật
Nam Truyện” viết:.. một phát giết vạn người, ba phát giết ba vạn người. Đà lui,
sai thái tử Thủy hàng An Dương. An Dương không biết Thông là thần nhân, thấy
(vua) không hiểu đạo lý, Cao Thông bèn bỏ đi. Thủy có tư dung đoan mỹ, con gái
An Dương Vương là Mỵ Châu vì thích y đẹp mà xiêu lòng. Thủy sai Châu vào kho
cưa đứt nỏ thần rồi về nước báo tin. Đà liền xuất kỳ bất ý (tiến đánh). An
Dương Vương nỏ gãy binh tan, trốn chạy ra biển. (Thái Bình Ngự Lãm là sách soạn
vào thời Bắc Tống (977 -984), trích dẫn “Nhật Nam Truyện” thì chắc là còn cũ
hơn. “Nhật Nam Truyện” hình như đã thất truyền, chỉ thấy trích dẫn lại ở sách
này-TGN).
25
Người viết bài này đã đến thăm và khảo sát khá kỹ Bảo Tàng Nam Việt Vương ở
Quảng Châu. Bảo tàng xây trên khu lăng mộ của Triệu Mô, vua kế vị Triệu Đà
(Thủy chết sớm, Mô là con Thủy thay). Ngôi mộ được phát hiện năm 1983, hầu như
còn nguyên vẹn, đồ tạo tác rất kỳ vĩ, tinh xảo chứng tỏ trình độ văn minh của
người Việt lúc đó khá cao, nếu không nói là hơn hẳn người Hán. Xem bảo tàng
thấy các cổ vật trưng bày như thạp đồng, trống đồng, vũ khí… giống in và còn
phong phú hơn nhiều so với Bảo Tàng Lịch Sử quốc gia Việt Nam 
#26
Lữ Gia, Thừa tướng nắm quyền hành của nước Nam Việt, chống lại nhà Hán,
 thua trận bị chém chết. Lữ Gia và người ở Quận Cửu Chân (Thanh Hóa ngày
nay), lăng mộ và đền thờ hiện còn ở Ân Thi, Hưng Yên
27Nguyễn
Hải Hoành: Tại sao Việt Nam 
28
Đại Việt sử ký toàn thư – NXB VHTT năm 2000, tập 3, trang 294.
 

 
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét