Thứ Tư, 17 tháng 2, 2021

VĂN TẾ ĐỒNG BÀO VÀ CHIẾN SĨ TỬ TRẬN TRONG CUỘC CHIẾN TRANH VỆ QUỐC CHỐNG TRUNG QUỐC XÂM LƯỢC (1979-1989)

 

Soạn giả: Lâm Khang Nguyễn Xuân Diện

 



Hỡi ơi!

Thấm thoắt đã bốn hai năm

Mới đấy đã thành thiên cổ!

Trời biên giới ầm vang tiếng súng, thanh niên lớp lớp lên đường

Miền biên cương máu nhuộm đỏ sông, dân chúng nhà nhà tan tác

Nhớ linh xưa:

Chiến sĩ tòng chinh

Tuổi hoa niên đang bận sách đèn

Lòng trai tráng chứa bao mơ ước

Đáp lời non sông, hăm hở lên đường

Từ biệt quê hương, gạt niềm thương nhớ

“Súng bắn chưa quen, quân sự đôi bài”, đánh giặc bằng lòng căm hận

Chiến trận chưa từng, ba lô một gánh, nhắm bắn bằng nỗi hờn căm.

Nhân dân biên giới

Đang yên ổn làm ăn, đâu ngờ phút chốc loạn ly

Gặp buổi thanh bình, ai tưởng được điều thảm khốc

Pháo giao thừa vừa nổ, hội xuân vừa mở rộn ràng

Năm mới vừa sang, hy vọng ngập tràn phơi phới

Đì đùng súng bắn, trẻ con vẫn tưởng pháo giao thừa

Loa réo vang trời, cụ già còn ngờ loa hội mở

Thương thay!

Thứ Bảy, 13 tháng 2, 2021

GIẤC MƠ ĐẦU XUÂN

 

Nguyen Ngoc Chu

 

1. SAU MỘT ĐÊM NGỦ

Đất nước bước vào thập niên 2021-2030. Ước muốn lớn nhất mang tính chìa khoá là Cải cách Thể chế. Cải cách Thể chế cấp thiết đến mức từ cựu TT Nguyễn Tấn Dũng cho đến đương kim TT Nguyễn Xuân Phúc đã nhiều lần đề cập. Nhưng sau tất cả những gì thể hiện ở Đại hội XIII thì đành tạm gác lại. Vì ước muốn đó nằm ngoài suy nghĩ của người thực quyền. Bởi thế mà phải nói về ước muốn khác. Ước muốn về phát triển kinh tế. Đó là ước muốn buổi tối lên tàu tại Hà Nội, sáng đến TP Hồ Chí Minh. Một điều tầm thường cho công dân EU đã 40 năm, nhưng là điều ước khó trở thành hiện thực cho người Việt Nam cho đến trước năm 2040.

Vai trò tối quan trọng của đường sắt trong nền kinh tế quốc dân và quốc phòng không có gì phải bàn luận. Thuận lợi bố trí địa lý rằng chỉ cần xây dựng 1 tuyến đường sắt Bắc - Nam mà nối hầu hết các tỉnh thành cả nước cũng không cần nhắc lại. Cũng không nhắc lại những nguyên do của nhiều đời bộ trưởng bộ GTVT và nhiều đời Thủ tướng tại sao đã để cho đường sắt Việt Nam suốt 40 năm qua hầu như không đổi. Chỉ nói đến mong muốn.

2.BƯỚC TIẾN CỦA ĐƯỜNG SẮT CAO TỐC

Trung Quốc chỉ trong 1 thập niên, kể từ năm 2007 đã bước đi bước chân khổng lồ chưa từng có trong lịch sử đường sắt nhân loại khi xây dựng được 38 000 km đường sắt cao tốc với tốc độ trong khoảng 300 – 500 km/h. Đây là 2/3 tổng chiều dài đường sắt cao tốc của thế giới đã đưa vào phục vụ. Trung Quốc sẽ nâng tổng số chiêù dài đường sắt cao tốc lên 70 000 km vào năm 2035.

Nhật Bản là nước đầu tiên phát triển đường sắt cao tốc phục vụ đời sống (1964). Nhưng tổng chiều dài đường sắt cao tốc của Nhật Bản hiện nay cũng chỉ khoảng 3 500 km, tương đương với Pháp và Đức và nhường vị trí thứ 2 thế giới cho Tây Ban Nha có gần 5000 km. Pháp là quốc gia thứ 2 sau Nhật Bản có tàu hoả cao tốc TVG vào năm 1981. Sau Pháp là một loạt các nước châu Âu khác triển khai đường sắt cao tốc.

3.TAỊ SAO MỸ CHẬM XÂY DỰNG ĐƯỜNG SẮT CAO TỐC?

Trong bức tranh ngược lại, thì Mỹ chỉ có một tuyến đường sắt cao tốc Amtrak’s Acela Express đang vận hành (240 km/h). Sự chậm trễ của Mỹ trong xây dựng đường sắt cao tốc được lý giải bởi nhiều nguyên do, nhưng quan trọng nhất bởi 3 nguên nhân sau đây.

Thứ Tư, 10 tháng 2, 2021

GS TS Nguyễn Xuân Thắng, Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia, đạo văn?

 

Viet-studies

8-5-2018

Thử so sánh vài bài của GS TS Nguyễn Xuân Thắng (Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh) và vài bài của các tác giả khác đã viết trước

So sánh “V.I Lê-nin với sự vận dụng, phát triển chủ nghĩa Mác trong điều kiện lịch sử cụ thể của nước Nga” (Nhân Dân 23-4-2018) của GS TS Nguyễn Xuân Thắng với “Chính sách kinh tế mới của V.I Lê-nin – một cơ sở quan trọng của đổi mới ở Việt Nam” (Tạp Chí Cộng Sản 21-4-2015) của PGS TS Nguyễn An Ninh

1- Nguyễn Xuân ThắngĐể huy động các nguồn lực cho những nhu cầu cấp thiết, các biện pháp mệnh lệnh hành chính thiên về việc sử dụng quyền lực nhà nước đã được ban bố và thực hiện. Mục đích là để trưng thu, tịch thu lương thực, thực phẩm và các tư liệu sản xuất nhằm phục vụ cho nhu cầu quốc phòng và dân sinh.

Nguyễn An Ninh: Để huy động các nguồn lực cho những nhu cầu cấp thiết, các biện pháp mệnh lệnh hành chính thiên về việc sử dụng quyền lực nhà nước để trưng thu lương thực, thực phẩm và các tư liệu sản xuất, kiểm soát việc sản xuất và phân phối sản phẩm nhằm phục vụ cho nhu cầu quốc phòng và dân sinh… đã được ban bố và thực hiện.

2- Nguyễn Xuân ThắngNhiều nguồn lực cho nhu cầu quốc phòng và dân sinh cấp thiết đã được huy động, qua đó giúp củng cố và phát triển sức mạnh của chính quyền Xô-viết. Song mặt khác, nhiều hạn chế, bất cập cũng đã bộc lộ: phương pháp mệnh lệnh hành chính, ý chí chủ quan muốn xây dựng ngay CNXH đã không được thực tế chấp nhận.

Nguyễn An Ninh: Nhiều nguồn lực cho nhu cầu quốc phòng và dân sinh cấp thiết đã được huy động, qua đó giúp củng cố và phát triển sức mạnh của chính quyền Xô-viết. Tuy nhiên, sau một thời gian thực hiện, phương pháp mệnh lệnh hành chính đã bộc lộ bất cập trong hoàn cảnh cụ thể của nước Nga đương thời.

3- Nguyễn Xuân Thắng: Tháng 3 năm 1921, Đại hội lần thứ X Đảng Cộng sản Nga, do V.I. Lê-nin lãnh đạo đã chuyển từ “Chính sách cộng sản thời chiến” sang “Chính sách kinh tế mới” viết tắt là NEP… Cần hiểu rằng NEP không chỉ là một chính sách mới để quản lý vĩ mô về kinh tế mà còn là một cải cách có tính tổng thể về mô hình chủ nghĩa xã hội, gồm nhiều nội dung.

Nguyễn An Ninh: Từ mùa xuân năm 1921, V.I. Lê-nin đã khởi xướng cuộc cải cách đầu tiên về mô hình và biện pháp xây dựng CNXH thông qua NEP. Cần hiểu rằng, NEP không chỉ là một chính sách quản lý vĩ mô về kinh tế, mà là một cải cách có tính tổng thể về CNXH, gồm nhiều nội dung.

4- Nguyễn Xuân Thắng: Những bất hợp lý của Chính sách “cộng sản thời chiến” bị bãi bỏ, chế độ “trưng thu lương thực thừa” được thay bằng thuế lương thực với tư cách là khâu đầu tiên, là “liệu pháp cấp tốc, cương quyết nhất, cấp thiết nhất” để phát triển lực lượng sản xuất nông nghiệp. Thực hiện chế độ thuế, tự do buôn bán, trao đổi hàng hóa, sử dụng quan hệ hàng – tiền trong xây dựng CNXH là “đòn xeo” chủ yếu để phát triển kinh tế, là hình thức cơ bản của các mối liên hệ kinh tế giữa công nghiệp với nền nông nghiệp hàng hóa, giữa thành thị với nông thôn.

Nguyễn An Ninh: Một là, những bất hợp lý của “Chính sách cộng sản thời chiến” bị bãi bỏ, chế độ “trưng thu lương thực thừa” được thay bằng thuế lương thực với tư cách là “liệu pháp cấp tốc, cương quyết nhất, cấp thiết nhất” để phát triển sản xuất. Việc trao đổi hàng hóa trên cơ sở của nguyên tắc thị trường được thừa nhận và phục hồi, quan hệ hàng – tiền là “đòn bẩy” kinh tế, là hình thức cơ bản của các mối liên hệ giữa công nghiệp với nông nghiệp, giữa thành thị với nông thôn.

5- Nguyễn Xuân Thắng: Phát triển “chủ nghĩa tư bản nhà nước” – mắt xích “trung gian quan trọng để xây dựng chủ nghĩa xã hội”. V.I. Lê-nin đặt câu hỏi: …“liệu có thể kết hợp, liên hợp, phối hợp Nhà nước Xô-viết, nền chuyên chính vô sản, với chủ nghĩa tư bản nhà nước được không? Tất nhiên là được”. Người cho rằng, việc tìm cách ngăn cấm, triệt để chặn đứng mọi sự phát triển của trao đổi tư nhân, của CNTB – một sự phát triển không thể tránh được khi có hàng triệu người sản xuất nhỏ, “chính sách ấy là một sự dại dột và tự sát đối với đảng nào muốn áp dụng nó”. Từ đó, Người chủ trương: …“chúng ta phải lợi dụng chủ nghĩa tư bản (nhất là bằng cách hướng nó vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước) làm mắt xích trung gian giữa nền tiểu sản xuất và chủ nghĩa xã hội, làm phương tiện, con đường, phương pháp, phương thức để tăng lực lượng sản xuất lên”.

Nguyễn An Ninh: Hai là, phát triển “chủ nghĩa tư bản nhà nước” – mắt xích “trung gian quan trọng để xây dựng CNXH”. V.I. Lê-nin đặt câu hỏi, đồng thời khẳng định rằng: “Liệu có thể kết hợp, liên hợp, phối hợp Nhà nước Xô-viết, nền chuyên chính vô sản, với chủ nghĩa tư bản nhà nước được không? Tất nhiên là được.”(2)… Tìm cách ngăn cấm, triệt để chặn đứng mọi sự phát triển của trao đổi tư nhân, của chủ nghĩa tư bản (CNTB) – một sự phát triển không thể tránh được khi có hàng triệu người sản xuất nhỏ, “chính sách ấy là một sự dại dột và tự sát đối với đảng nào muốn áp dụng nó”. Và thái độ đúng đắn là “Chúng ta phải lợi dụng chủ nghĩa tư bản (nhất là bằng cách hướng nó vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước) làm mắt xích trung gian giữa nền tiểu sản xuất và chủ nghĩa xã hội, làm phương tiện, con đường, phương pháp, phương thức để tăng cường lực lượng sản xuất lên”

6– Nguyễn Xuân Thắng: Phải học tập và sử dụng những giá trị của chủ nghĩa tư bản; kiên quyết phản đối việc “đem chủ nghĩa tư bản đối lập một cách trừu tượng với chủ nghĩa xã hội”. Theo V.I. Lê-nin: “lùi một bước” và “thỏa hiệp” bằng việc thu phục và trả lương cao cho chuyên gia tư sản là giải pháp tốt nhất xúc tiến CNXH. Người cho rằng, không có sự chỉ đạo của các chuyên gia am hiểu các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật và có kinh nghiệm tổ chức quản lý, thì không thể nào chuyển lên CNXH được.

Nguyễn An Ninh: Ba là, phải học tập và sử dụng những giá trị văn minh nhân loại được tạo ra từ CNTB; kiên quyết phản đối việc “đem chủ nghĩa tư bản đối lập một cách trừu tượng với chủ nghĩa xã hội”. Theo V.I. Lê-nin, ở một nước kinh tế lạc hậu thì giải pháp hiện thực để có được kinh nghiệm, tri thức quản lý hiện đại là học hỏi bằng việc thuê và trả lương cao cho chuyên gia tư sản. V.I. Lê-nin cho rằng, không có sự chỉ đạo của các chuyên gia am hiểu các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật và có kinh nghiệm tổ chức quản lý, thì không thể nào chuyển lên CNXH được.

7. Nguyễn Xuân Thắng: Củng cố chính quyền Xô-viết, tăng cường vai trò của quản lý, kết hợp chặt chẽ hành chính, tổ chức và kinh tế là biện pháp tốt nhất để xây dựng chủ nghĩa xã hội

Nguyễn An Ninh: Năm là, củng cố chính quyền Xô-viết, tăng cường vai trò của quản lý, kết hợp chặt chẽ các biện pháp hành chính, tổ chức với biện pháp kinh tế để xây dựng CNXH.

So sánh “Giá trị tư tưởng, lý luận và sức sống của chủ nghĩa Mác trong thời đại ngày nay” (Báo Xã hội, 5-5-18) của GS TS  Nguyễn Xuân Thắng với Bài tập cá nhân của sinh viên Đàm Đình Mạnh sinh ngày 19/8/1991 lớp k54H trường Đại học công nghệ Đại học quốc gia Hà Nội  

8– Nguyễn Xuân ThắngVận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử vào nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, C. Mác đã vạch ra những quy luật kinh tế của xã hội tư bản chủ nghĩa, nhìn nhận chủ nghĩa tư bản trong cả quá trình phát sinh, phát triển và diệt vong của nó. Một trong hai phát kiến vĩ đại của Mác là việc phát hiện ra quy luật giá trị thặng dư

Sinh viên Đàm Đình MạnhBằng cách vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử vào việc nghiên cứu nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, học thuyết kinh tế của Mác vạch ra những quy luật kinh tế của xã hội tư bản chủ nghĩa, vạch ra quá trình phátsinh, phát triển và diệt vong của nó. Một trong những phát hiện vĩ đại của Mác, là việc phát hiện ra quy luật giá trị thặng dư

9– Nguyễn Xuân ThắngVới hai phát kiến khoa học vĩ đại là chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư, C.Mác đã đặt nền móng vững chắc cho việc hiện thực hóa tư tưởng về chủ nghĩa xã hội khoa học – học thuyết về sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân và giải phóng loài người khỏi mọi hình thức nô dịch, áp bức, bóc lột và tha hóa. V.I.Lê-nin đã nhận định rằng, điểm cốt yếu của học thuyết Mác là soi sáng vai trò lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân với tư cách là người xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa thay thế xã hội tư bản.

Nhờ có thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp luận khoa học, C.Mác đã phát hiện ra quy luật phát triển của xã hội và lực lượng xã hội có thể đấu tranh xóa bỏ chế độ tư bản và xây dựng thành công xã hội mới, đó là giai cấp vô sản. C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã chỉ cho giai cấp vô sản hiểu rõ rằng, trước hết họ phải tự mình vùng lên giải phóng khỏi ách thống trị của chế độ tư bản chủ nghĩa. Trong cuộc đấu tranh đó, giai cấp vô sản phải đoàn kết xung quanh mình tất cả những người lao động.

Sinh viên Đàm Đình Mạnh: Với hai phát kiến khoa học vĩ đại là chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư, Mác đã đặt nền móng cho chủ nghĩa xã hội khoa học, học thuyết về sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân và giải phóng loài người khỏi mọi hình thức áp bức, bóc lột và tha hóa. Lê-nin cho rằng điểm cốt yếu của học thuyết Mác là nó đã soi sáng vai trò lịch sử thế giới của giai cấp công nhân là người xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa thay thế xã hội tư bản.

Nhờ có thế giới quan khoa học, chủ nghĩa Mác đã tìm ra quy luật phát triển của xã hội và lực lượng xã hội có thể tiêu diệt chế độ tư bản và sáng tạo xã hội mới,đó là giai cấp vô sản. Mác và Ăng-ghen chỉ ra cho giai cấp vô sản là trước hết phải tự mình vùng lên đánh đổ chế độ tư bản chủ nghĩa.  trong cuộc đấu tranh đó, giai cấp vô sản phải đoàn kết chung quanh mình tất cả những người lao động

So sánh Giá trị tư tưởng, lý luận và sức sống của chủ nghĩa Mác trong thời đại ngày nay” (Báo Xã hội, 5-5-18) của GS TS Nguyễn Xuân Thắng với đề dẫn Hội thảo khoa học “Sức sống của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới” (ĐHCT 11-9-15) Cục Tuyên huấn/Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam phối hợp với Trường Đại học Chính trị tổ chức

10 Nguyễn Xuân Thắng: Vận dụng những nguyên lý của chủ nghĩa Mác vào điều kiện lịch sử cụ thể ở nước Nga trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, bước đầu bắt tay xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực, V.I.Lê-nin đã bổ sung, phát triển, tạo nên giai đoạn Lê-nin trong sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác và hình thành nên chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Với thắng lợi của Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga vĩ đại năm 1917, chủ nghĩa xã hội từ một học thuyết trở thành một chế độ chính trị – xã hội hiện thực; chủ nghĩa Mác từ một “bóng ma ám ảnh châu Âu” đã được hiện thực hóa trong phong trào công nhân, mở ra một thời đại mới, thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Sự hình thành hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đã tác động mạnh mẽ đến tiến trình phát triển của loài người, là chỗ dựa cho các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc đứng lên đấu tranh tự giải phóng, xóa bỏ ách thống trị của chủ nghĩa thực dân cũ và mới. Những thắng lợi to lớn của chủ nghĩa xã hội đã làm thay đổi bộ mặt thế giới, là minh chứng hùng hồn cho sức sống mãnh liệt, trường tồn của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, học thuyết khoa học và cách mạng, nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.

Đề dẫn Hội thảo khoa học: Vận dụng những nguyên lý của chủ nghĩa Mác vào điều kiện ở nước Nga lúc bấy giờ, V.I.Lênin đã bổ sung, phát triển xây dựng nên chủ nghĩa Mác – Lênin. Kể từ khi chủ nghĩa Mác ra đời, lịch sử nhân loại đã có nhiều sự thay đổi to lớn. Với thắng lợi của Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga vĩ đại năm 1917, chủ nghĩa xã hội từ một học thuyết trở thành một thực thể chính trị – xã hội; chủ nghĩa Mác từ một “bóng ma ám ảnh châu Âu” đã được hiện thực hóa trên thực tế, mở ra một thời đại mới, thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Sự hình thành hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đã tác động mạnh mẽ đến tiến trình phát triển của loài người, là chỗ dựa cho các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc đứng lên đấu tranh tự giải phóng, xóa bỏ “vết nhơ thống trị” của chủ nghĩa thực dân trong lịch sử nhân loại. Những thắng lợi to lớn của chủ nghĩa xã hội đã làm thay đổi bộ mặt thế giới, là minh chứng hùng hồn cho sức sống mãnh liệt, trường tồn của chủ nghĩa Mác – Lênin, học thuyết khoa học và cách mạng, nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.

 

Covid-19: “Vũ khí hoàn hảo” của Đảng CS Trung Quốc (phần 1 và 2)

 

Covid-19: “Vũ khí hoàn hảo” của Đảng CS Trung Quốc (phần 1 và 2)

Stefano Filippi

Thục-Quyên lược dịch

Phần 1

Nhà ngoại giao nổi tiếng nhất của Ý, Cựu Bộ trưởng Ngoại giao Giulio Terzi di Sant’Agata, trong cuộc phỏng vấn ngày 29/01/2021 với ký giả Stefano Filippi(1), đã cho biết quan điểm của ông về dự án bá chủ toàn cầu của Tập Cận Bình và cách họ Tập sử dụng Đại dịch để thúc đẩy chương trình nghị sự của mình.

Giulio Terzi di Sant’Agata được coi là nhà ngoại giao Ý xuất sắc nhất. Ông từng là Đại diện Thường trực của Ý tại Liên Hiệp Quốc năm 2008-2009, Đại sứ Ý tại Hoa Kỳ năm 2009-2011 và Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Ý năm 2011-2013. Ông tiếp tục hoạt động tích cực trong các lĩnh vực an ninh quốc tế và nhân quyền. Ông đã rất chú ý quan sát Trung Quốc trong suốt thời gian dài làm việc trong ngành ngoại giao của mình, và cũng tích cực thúc đẩy đối thoại liên tôn và tự do tôn giáo.

Thưa Đại sứ, ông đã nhiều lần trả lời phỏng vấn về Trung Quốc và cuộc khủng hoảng COVID-19, cho rằng COVID-19 đã trở thành “vũ khí hoàn hảo” cho chế độ Trung Quốc. Xin ông nói rõ hơn.

Tôi không có ý nói rằng con virus này là một vũ khí sinh học.

Điều tôi muốn nói là Tập Cận Bình đã sử dụng đại dịch để thúc đẩy dự án bá chủ toàn cầu của ông ta.

Đây là thực tế: trong thời kỳ đại dịch, Trung Quốc đã gia tăng ảnh hưởng chính trị của mình bằng cách thông tin sai lệch, tuyên truyền và áp dụng một chính sách ngoại giao rất hung hăng. Họ đã xoay xở thuyết phục được một số người rằng loại virus này không sinh ra ở Vũ Hán. Thậm chí có người còn tin rằng nó có nguồn gốc từ Ý.

Và họ cũng đã thành công trong việc loan truyền lý thuyết rằng chỉ có Trung Quốc mới thành công kiềm chế dịch bệnh, trong khi các nền dân chủ tây phương đã chứng minh một cách ngoạn mục rằng họ đang bệnh hoạn và suy đồi. Điều nghịch lý nhất là chúng ta đều quên rằng, sau đại dịch SARS, năm 2005, Trung Quốc đã ký một thỏa thuận quốc tế, buộc tất cả các nước ký kết chia sẻ thông tin về các loại virus mới xuất hiện trong vòng 24 giờ đồng hồ. Họ đã ngang nhiên vi phạm thỏa thuận này, chờ hàng tuần và có thể hàng tháng trước khi thông báo cho thế giới những gì họ biết về COVID-19. Chưa kể bây giờ, phải sau hơn một năm họ mới cho phép một phái đoàn của WHO đến nước họ điều tra.Và trong phái đoàn thì chỉ có  các chuyên gia mà Trung Quốc chấp thuận.

Như tôi đã nói, một vũ khí hoàn hảo!

Vũ khí dùng trong việc gì?

Chủ Nhật, 7 tháng 2, 2021

DÃ TÂM CỦA ĐCSTQ: LẬT ĐỔ HOA KỲ, THỐNG TRỊ THẾ GIỚI

 

Thanh Ngọc

Cuộc bầu cử tổng thống Mỹ 2020 đã bị đánh cắp, theo rất nhiều bằng chứng có được. Nhưng nó không đơn giản là Joe Biden ăn cắp phiếu của Tổng thống Trump, mà rất có thể đằng sau là một âm mưu đánh cắp khủng khiếp hơn, do Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) đạo diễn.

Ông Lin Wood – Luật sư nhân quyền hàng đầu thuộc nhóm luật sư của Tổng thống Trump đã liên tục tuyên bố Twitter rằng, ĐCSTQ đã can thiệp nghiêm trọng vào cuộc bầu cử tổng thống Mỹ 2020 thông qua hệ thống bỏ phiếu Dominion.

“ĐCSTQ đã thâm nhập Hoa Kỳ trong suốt 20 năm qua. Một lượng lớn quan chức cấp chính phủ quốc gia, tiểu bang, địa phương và nhiều chính khách đã bị ĐCSTQ dùng tiền mua chuộc và/hoặc bị đe dọa…”

“Quy tắc cơ bản của chiến tranh là xác định kẻ thù. Đất nước của chúng ta đang giao chiến với ĐCSTQ. Đây là một cuộc đọ sức chính – tà”, ông Wood nói.

Xét trên một khía cạnh nào đó, vụ đánh cắp bầu cử lần này chính là cơ hội để người Mỹ thức tỉnh. ĐCSTQ đã nuôi dã tâm lật đổ Hoa Kỳ, làm bá chủ thế giới từ rất lâu, nhưng nước Mỹ và phương Tây nói chung đã bị lợi ích ru ngủ mà nhượng bộ, hoặc bắt tay với Bắc Kinh – Điều đó giống như con ếch bị luộc trong nồi nước nóng lên từ từ mà không hay biết.

Trong cuốn sách “Cuộc chạy đua đường dài trăm năm: Chiến lược bí mật của Trung Quốc hòng soán vị Mỹ trở thành siêu cường thế giới”, chuyên gia an ninh quốc gia Michael Pillsbury phân tích rằng Trung Quốc có một chiến lược dài hạn nhằm lật đổ trật tự kinh tế, chính trị thế giới mà Mỹ đang dẫn đầu và thay bằng hình thái ý thức hệ của ĐCSTQ vào năm 2049, nhân kỷ niệm 100 năm ĐCSTQ nắm quyền cai trị Trung Quốc. Pillsbury lưu ý bộ phim truyền hình “Cuộc giao tranh thầm lặng” (Silent Contest), do Đại học Quốc phòng Trung Quốc sản xuất, đã biểu thị minh xác dã tâm giao tranh với Hoa Kỳ: Trong quá trình thực hiện “sự nghiệp vĩ đại” trở thành bá chủ thế giới, ĐCSTQ “tất không thể tránh khỏi tình huống liên tục cọ xát và đấu tranh với vị trí đi đầu thế giới của Mỹ”, và “đây là cuộc giao tranh thế kỷ không thể thay đổi bằng ý chí con người”.

Chiến lược lật đổ Mỹ, xưng bá toàn cầu của ĐCSTQ

Chương 18 của cuốn sách “Ma quỷ đang thống trị thế giới chúng ta”, với tựa đề “Dã tâm toàn cầu” đã vạch trần toàn diện âm mưu và thủ đoạn bành trướng của ĐCSTQ trên tất cả lĩnh vực: chính trị, kinh tế, truyền thông, công nghệ… Dưới đây là một vài ý chính:

Thứ Tư, 3 tháng 2, 2021

Xin nghỉ mà không được nghỉ?

 

Xin nghỉ mà không được nghỉ?

Nguyễn Ngọc Chu

I. “Đảng viên thì phải chấp hành”?

1. Hôm nay nhiều báo đăng lời của TBT Nguyễn Phú Trọng lý giải tại sao tiếp tục ở lại - dù tuổi cao, dù không khoẻ lắm. Báo Vietnamnet.vn đưa tin“Tôi thì không khỏe lắm, tuổi cao rồi, tôi xin nghỉ rồi nhưng Đại hội bầu vẫn phải làm vì là đảng viên thì phải chấp hành”.

Còn báo Tuổi Trẻ điện tử thì: “Tổng bí thư, Chủ tịch nước: ‘Tôi đã xin nghỉ nhưng được phân công, đảng viên phải chấp hành’”.

Lời của TBT Nguyễn Phú Trọng trên đây gợi nhớ đến trả lời của cựu Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vào ngày 14/11/2012 trước câu hỏi của ông Dương Trung Quốc về từ chức:

“Đảng đã phân công tôi tiếp tục làm Thủ tướng Chính phủ và Quốc hội cũng chấp thuận tôi làm Thủ tướng Chính phủ nên tôi cũng sẽ chấp hành, chấp nhận nhiệm vụ giao phó. Trong sự nghiệp của mình, tôi không có chạy, không có xin, không thoái thác, từ chối nhiệm vụ nào Đảng phân công. Tôi sẽ tiếp tục thực hiện công việc mà Đảng và nhà nước giao phó”.

Từ 2 trường hợp trên thì thấy được rằng, không có tự từ chức đã đành, lại còn xin nghỉ mà không được nghỉ.

2. Điều thứ 2 rất trăn trở là: Có phải cứ phân công là phải đảm nhiệm?

Bởi vì biết đâu sự đảm nhiệm đó không mang lại lợi ích mà có khi còn mang lại tác hại? Chẳng hạn như trường hợp Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe tự tự chức vì ông cảm thấy sức khoẻ không đủ - có thể làm ảnh hưởng đến các quyết định liên quan đến vận mệnh quốc gia.

3. Điều thứ 3 phải trăn trở là: Việc phân công TBT Nguyễn Phú Trọng đảm nhiệm chức vụ TBT nhiệm kỳ thứ III liên tiếp tương thích như thế nào với Điều 17 của Điều lệ Đảng?

Điều 17 Điều lệ ĐCS Việt Nam ghi rõ: “Đồng chí Tổng Bí thư giữ chức vụ Tổng Bí thư không quá hai nhiệm kỳ liên tiếp”.

Điều khoản này được thông qua lần đầu tiên tại Đại hội IX ngày 22/ 4/2001. Đây là nỗ lực của các cựu TBT Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu và các lãnh đạo cách mạng lão thành khác như Đại tướng Chủ tịch nước Lê Đức Anh, Thủ tướng Võ Văn Kiệt và toàn Đại hội IX - trong ngăn chặn sự kéo dài quyền lực, để “nhốt quyền lực” bằng Điều lệ Đảng mà không một đảng viên nào có thể vi phạm.

Quy định “Đồng chí Tổng Bí thư giữ chức vụ Tổng Bí thư không quá hai nhiệm kỳ liên tiếp” lại được toàn thể Đại hội XI nhất trí thông qua ngày 19/01/2011, cuối thời TBT Nông Đức Mạnh.

Cho đến sáng nay (01/2/2021), trên báo chí chính thống của Nhà nước chưa thấy thông báo về sửa đổi Điều 17 Điều lệ Đảng. Trong khi đó, Hội nghị 11 BCH Trung ương Đảng (07/10-12/10/2019) tán thành trình Đại hội XIII: Giữ nguyên Điều lệ Đảng, không sửa đổi, không bổ sung.

Chiều nay (01/2/2021) được biết Đại hội XIII không sửa đổi Điều lệ Đảng.

Vậy điều khoản “Đồng chí Tổng Bí thư giữ chức vụ Tổng Bí thư không quá hai nhiệm kỳ liên tiếp” của Điều 17 Điều lệ Đảng được tuân thủ như thế nào?

Cần lưu ý rằng, hạn chế 2 nhiệm kỳ không phải là sáng kiến riêng của Việt Nam. Đây là đúc kết kinh nghiệm của nhân loại. Đây chính là “Lồng nhốt quyền lực”.

Đến như ông Putin, sau 2 nhiệm kỳ làm Tổng thống Nga, cũng phải chuyển sang làm Thủ tướng một nhiệm kỳ, trước khi làm Tổng thống nhiệm kỳ thứ 3.

Tại sao trong 5 triệu 100 ngàn đảng viên mà không thể tìm ra người tài giỏi, để người xin nghỉ vẫn không được nghỉ, dù “không khoẻ lắm”? Đây là điều trăn trở của mọi đảng viên.

Rõ ràng là công tác quy hoạch cán bộ có vấn đề. Sau 2 nhiệm kỳ tổng cộng 10 năm mà vẫn không thể tìm được người đảm nhiệm chức vụ TBT. Như vậy các đồng chí trong BCT của cả 2 nhiệm kỳ XI, XII là chưa đủ năng lực? Chưa có người giỏi chăng?

Tháng 07 năm 1936 tại Hội nghị BCHTƯ, đồng chí Hà Huy Tập được cử làm TBT thay đồng chí Lê Hồng Phong TBT của Đảng mới có hơn một năm trước (3/1935). Chỉ chưa đầy 2 năm, tháng 3/1938 đồng chí Nguyễn Văn Cừ được cử làm TBT thay đồng chí Hà Huy Tập. Khi đồng chí Nguyễn Văn Cừ bị địch bắt tháng 1/1941 thì tháng 5/1941 đồng chí Trường Chinh được cử lên thay. Sau TBT Trường Chinh là TBT Lê Duẩn, TBT Nguyễn Văn Linh, TBT Đỗ Mười…

Đảng không bao giờ thiếu TBT. Giỏi như TBT Lê Hồng Phong, TBT Hà Huy Tập đều phải thay thế chỉ sau 1, 2 năm. Liên tục trong nhiều năm Đảng thay đổi TBT nhiều lần. Chỉ sau này chức TBT mới bị kéo dài nhiều nhiệm kỳ. Đó là nguyên do dẫn đến quy định “Đồng chí Tổng Bí thư giữ chức vụ Tổng Bí thư không quá hai nhiệm kỳ liên tiếp”.

Người tài trong dân còn nhiều hơn nữa. Như Nguyễn Trãi đã từng viết: “Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau. Nhưng hào kiệt đời nào cũng có”.

Thảo nào nhân sự Đảng là “tuyệt mật”

 

Mạc Văn Trang

Nay xem Danh sách BCHTW ĐCSVN khoá XIII vừa được công bố, mới càng thấy “tuyệt mật" về nhân sự của ĐCSVN là bí quyết thành công! Nếu công khai danh sách để “Dân biết, Dân bàn, Dân kiểm tra, Dân góp ý" thì nhiều chuyện “thâm cung bí sử" của nhiều đồng chí sẽ toé loe ra, không khéo “bung", “toang" thì nguy. Bí mật nên “Lòng Dân" mới không biết “Ý Đảng" ra răng mà mần!

Nếu để dân ý kiến, tôi tin rằng mấy vị sau đây khó lòng ở lại UVBCHTW:

1. Cụ Nguyễn Phú Trọng. Cứ cho là sự nghiệp “đốt lò" của Cụ được nhiều người khen; Cụ gương mẫu với các đảng viên; Cụ có công củng cố Đảng… nhưng nghe trong Dân có nhiều ý kiến về Cụ đấy:

- Nhiều người thương yêu Cụ, bảo Cụ già yếu, bệnh tật thế kia, để Cụ phải gánh vác công việc nặng nề nom rất tội. Nghe nói Cụ bà cũng khuyên can Cụ nghỉ hưu thôi. Nhiều người quý Cụ mà muốn Cụ được an nhàn tuổi già. Cũng có người bảo cụ Bai-Đần bên Mỹ còn già hơn, nhưng cụ ấy chưa bị bệnh, còn đi lại nhanh nhẹn, quỳ gối cũng rất thanh thoát; còn cụ Trọng thì tai biến rồi, đi phải có người dắt, tuổi càng cao, sẽ càng yếu... Cụ ở lại mang tiếng “tham quyền, cố vị"; ở ĐH XII, hứa là làm nửa nhiệm kỳ, thế rồi kéo dài cả nhiệm kỳ, nay lại kéo tiếp nhiệm kỳ thứ 3. Thế là vi phạm Điều lệ Đảng, mà thân làm tội đời, chứ được gì!...

- Lại có người bảo, sao Cụ không tin vào người kế cận do chính Cụ tuyển chọn, bồi dưỡng mà cứ cố ôm đồm? Tre già măng mọc chứ, ôm sao được mãi? Cụ từng chọn ông Phạm Quang Nghị làm “thế tử", thế rồi cũng đi “tong"; rồi ông Đinh Thế Huynh, Cụ tâm đắc lắm, thế mà cũng cho “ngồi chơi xơi nước” mất tăm! Rồi khoá này, ông Trần Quốc Vượng được chọn là Thường trực Ban bí thư, “dưới một người, trên vạn người", quyền sinh, quyền sát bấy lâu nay, thế mà cũng cho “tuột dốc không phanh". Vậy là sao? Có kẻ độc mồm, theo “thuyết âm mưu", nó bảo, Cụ chỉ giả vờ “lú" thôi, chứ thâm nho lắm: Chọn người kế vị “có vấn đề", để Cụ phế đi và tiếp tục nắm quyền… Thôi thì miệng tiếng “Dân biết, Dân bàn"... phức tạp lắm!

- Còn cái bọn “thế lực thù địch, cơ hội, bất mãn", đòi Tam quyền phân lập, Xã hội dân sự, mà Cụ gọi là “những kẻ bất hảo", chúng nó chê Cụ kinh lắm, chả dám nhắc ở đây làm gì. Nhưng bọn ấy cũng là Dân đấy, chúng vẫn là công dân, thực hiện theo điều 25 của Hiến pháp CHXHCNVN (2013). Dù Cụ bảo: Hiến pháp là quan trọng lắm, chỉ dưới Cương lĩnh của Đảng, nhưng bọn này không thèm biết Cương lĩnh là gì, cứ Hiến pháp là tối thượng! Cụ mà bắt bọn này đi tù hết thì nhà tù đâu mà chứa?

2. Ông Nguyễn Hoà Bình. Trong vụ án Hồ Duy Hải ông đóng cả 3 vai: Công an, Viện Kiểm sát, Chánh tòa tối cao; suốt 12 năm cứ kết án tử hình Hồ Duy Hải chỉ căn cứ vào lời khai do bức cung, không hề thu thập các chứng cứ khách quan đủ để kết án. Vụ án này đã gây bức xúc trong toàn Dân, nhất là nghe ông báo cáo giải trình ở Quốc hội thì không ai có chút lương tri có thể chấp nhận. Uỷ ban Tư pháp của Quốc hội, Viện trưởng Viện KSND tối cao cũng phản bác kết luận của ông. Chung quanh vụ án Hồ Duy Hải còn biết bao điều mờ ám, mà ông là trung tâm của mọi chuyện bí mật. Vậy có “LÒNG DÂN” nào ưa ông? Nhưng ông lại là “Ý Đảng” trọng dụng đấy!

3. Ông Bùi Văn Cường - Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk. Riêng cái chuyện có 2 người tố ông “đạo văn" trong cái luận án Tiến sĩ “Chân vịt tàu chạy trên vùng biển Hải Phòng", ông liền cho tay chân đến bắt cóc người ta về tra khảo, để “đối tượng" nhận tội “nói xấu lãnh đạo"... đã bị xã hội lên án dữ dội. Nếu người ta “tố điêu" hay “nói xấu" thì ông phải kiện ra Tòa để xét xử, chứ sao lại hành xử như phường “lục lâm thảo khấu” vậy? Nếu dân “góp ý" thì ông toi rồi. Nhưng ông lại được “Ý Đảng” coi là “hạt giống đỏ" thì “Lòng Dân” đành cam chịu vậy!

Nhân cuộc đảo chính ở Myanmar , xem lại bài báo viết năm 2019 !

 

Chính biến- và có thể là đảo chính quân sự ở Myanmar liệu có liên quan gì đến Trung Quốc? Không thể loại trừ yếu tố Trung Quốc trong chính biến- đảo chính quân sự này. Trước đây, quân đội Myanmar đã gắn chặt với các đặc quyền đặc lợi mà Trung Quốc ban phát. Nhưng vào năm 2015, chính quyền dân chủ non trẻ ở Myanmar đã thực hiện mối quan hệ với Trung Quốc theo các chuẩn mực quốc tế. Có lẽ, chính sách này đã làm phật lòng quân đội Myanmar và cả chính Trung Quốc. Mời các bạn đọc lại bài viết từ cuối năm 2019.

Myanmar Đã Rời Xa Trung Quốc, Bao Giờ Đến Lượt Việt Nam?

Trung Quốc có rất nhiều láng giềng, trong số đó có nhiều láng giềng không hề bị ảnh hưởng của Trung Quốc trong suốt chiều dài lịch sử như Ấn Độ, Nepal, Nga, Mông Cổ…. Nhưng có rất nhiều láng giềng bị “Trung hóa” như Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên, Myanmar. Những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề bởi Trung Quốc đều có chung một đặc điểm: nghèo đói và lạc hậu, cô đơn và bất hạnh.

Sẽ là quá khập khiễng khi so sánh bất kỳ nhân vật chóp bu nào của đảng CSVN với Thein Sein (phải) – người đã rũ áo tổng thống để xuất gia, sau khi đặt viên gạch dân chủ cho đất nước này.

Thoát khỏi nanh vuốt nô dịch của Trung Quốc để phát triển là đòi hỏi nóng bỏng của Nhật Bản từ giữa thế kỷ 19. Bằng cách mở cửa để giao thương với Mỹ và Châu Âu, học hỏi văn minh Châu Âu về mọi phương diện, chỉ trong một thời gian ngắn, Nhật Bản đã trở thành một cường quốc. Khi Nhật Bản xâm chiếm Triều Tiên vào đầu thế kỷ 20, Nhật Bản cũng đã tiến hành xây dựng các chính sách hữu dụng để Triều Tiên thoát khỏi bóng ma Trung Quốc.

Mông Cổ là một điển hình khác về sự thoát Trung. Khi còn là một quốc gia có ý thức hệ cộng sản và bị kẹp giữa hai ông lớn cộng sản là Liên Xô và Trung Quốc, Mông Cổ đã chủ động chọn bạn Liên Xô ít nô dịch hơn, ít tráo trở hơn. Khi trở thành một quốc gia dân chủ, Mông Cổ đã không chọn bạn là hai người láng giềng khổng lồ mà chủ động chọn hai người bạn Mỹ và Nhật Bản.

Myanmar là một quốc gia láng giềng khác của Trung Quốc đang tái xác lập nền dân chủ. Đất nước này tự ý thức được rằng, nếu không thực hiện các chính sách thoát Trung, Myanmar không thể đi trên con đường dân chủ. Myanmar thoát Trung Quốc như thế nào?

Khi được Anh trao trả độc lập vào tháng 01-1948, Myanmar là một quốc gia dân chủ. Năm 1962, Myanmar trở thành một nước xã hội chủ nghĩa sau cuộc đảo chính do tướng Ne Win cầm đầu và thực hiện. Ngày 30 tháng 3 năm 2016, ông Htin Kyaw trở thành tổng thống dân sự đầu tiên sau một cuộc bầu cử tự do, đánh dấu việc tái xác lập nền dân chủ ở Myanmar.

Myanmar hay còn gọi là Miến Điện là quốc gia không cộng sản đầu tiên thừa nhận Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vào ngày 17-12-1949. Trong giai đoạn từ năm 1950 đến nắm 1961, hai quốc gia này chung sống hòa bình. Giai đoạn năm 1962 đến năm 1971 là giai đoạn thù nghịch giữa hai quốc gia đã một thời hữu hảo. Trong giai đoạn này, Trung Quốc đã bí mật ủng hộ Đảng Cộng Sản Miến Điện để tạo ra cuộc nội chiến trên đất Miến Điện. Đảng Cộng Sản Miến Điện thành lập năm 1939 được Đảng Cộng Sản Trung Quốc yểm trợ và hậu thuẫn về tất cả mọi mặt, đã tiến hành đấu tranh vũ trang và bạo lực khủng bố với quân đội Miến Điện với mục tiêu biến Miến Điện thành một đất nước cộng sản. Vào thời kỳ này, Cách mạng văn hóa do Mao đề xướng đã bùng phát dữ dội tại Trung Quốc và lan đến Myanmar có nhiều người gốc Trung Quốc. Những người Myanmar gốc Trung Quốc đã cuồng nhiệt tham gia vào đảng Cộng Sản Miến Điện, thành lập các đội Hồng Vệ Binh, tuyên truyền chủ nghĩa vô sản và tư tưởng Mao một cách công khai tại các nhà máy, trường học, công sở và khu dân cư. Cùng lúc đó, tàn quân của Quốc Dân Đảng ở Miến Điện đã tiến hành tự vũ trang, lập căn cứ và sản xuất thuốc phiện. Đất nước Myanmar gần như rơi vào tình trạng nội chiến mà kẻ giật dây và nuôi dưỡng chính là Trung Quốc Cộng Sản.

Thứ Hai, 1 tháng 2, 2021

QUYỀN DÂN SẼ QUYẾT ĐỊNH QUỐC GIA THỊNH VƯỢNG VỮNG BỀN

 


(Lưu Trọng Văn)

"Bây giờ tôi không được khỏe lắm, các đồng chí biết, tuổi cũng đã cao, cũng xin nghỉ rồi, thế nhưng Đại hội bầu phải làm, Đảng viên thì phải chấp hành. Tôi sẽ cố gắng, hết sức cố gắng. "

Gã không thích cách nói đó. Gã thích bác nói toẹt: tôi mặc dù tuổi cao sức yếu nhưng vẫn muốn làm để thực hiện bằng được khát vọng của tôi đó là : Đưa Đất nước thật sự giàu có, văn minh, Đồng bào thương yêu nhau, tử tế với nhau.

Thế thôi, rồi bác vạch ra kế hoạch hành động, những việc mà bác và đảng của bác còn Nợ với Dân quá lâu rồi.

Đó là các món Nợ:

Pháp quyền. Không cho bất cứ tổ chức, đảng phái, cá nhân nào ngồi xổm trên Hiến pháp, Pháp luật.

Đặt Lợi ích của Dân tộc, Quốc gia trên hết, trên bất cứ lợi ích phe nhóm, đảng phái nào và Luật hoá các cam kết trên.

Luật Đất đai thay đổi. Lãnh thổ là sở hữu duy nhất của Toàn Dân. Đẩt đai đa sở hữu: Cá nhân, tập thể, nhà nước.

Dân quyền.

Dân được quyền và có quyền khiếu kiện toà án và được toà án bảo vệ: quyền ăn sạch, quyền uống nước sạch, quyền sử dụng nước sạch, quyền thở không khí sạch, quyền được nghỉ ngơi yên tĩnh, quyền tự do cư trú, đi lại, quyền được bảo vệ an ninh.

Dân chủ.

Thực hiện sớm nhất các điều quy định của Hiến pháp hiện hành về các Luật :Luật thành lập Hội, Luật Biểu tình, Luật Tự do Ngôn luận, Luật Tự do Tôn giáo...

Đảng ngay tại kì Bầu cử Quốc hội này tôn trọng Quyền Dân trong đề cử, ứng cử, bầu cử và cần dành tối thiểu 30% ghế đại biểu của Dân cho Dân.

Thưa bác cả, nếu bác ở lại để thanh toán sòng phẳng các khoản nợ quá hạn này của đảng của bác với Dân thì chắc chắn bác sẽ được tôn vinh là anh hùng Dân tộc. Vì thời đại này việc làm cứu nước đúng nghĩa nhất là giành Niềm tin của Dân.

Đất nước không thể giàu có, văn minh dù cả một trăm năm nữa chứ đừng nói đến 2045, nếu các Quyền cơ bản của Dân không được tôn trọng.

Quyền Dân sẽ quyết định Lòng Dân. Lòng Dân sẽ quyết định sự thịnh vượng bền vững của Quốc gia, Dân tộc.

Chân thành chúc bác sức khoẻ và rất mong một ngày nào đó được là công dân thành tâm tôn vinh bác: Anh hùng Dân tộc.

THẤT BẠI CỦA NGUYỄN PHÚ TRỌNG

Trang Nguyen

 


Nhân trị và Pháp trị là những điều kiện cần có hình thành nên một chính trị gia. Nhân trị là khả năng quy tụ quần hùng, xây dựng phe cánh, thế lực. Pháp trị là kĩ năng trị quốc, phát triển đất nước lớn mạnh.

Bỏ qua cảnh khóc lóc trước Trung Ương Đảng vì không kỉ luật được Nguyễn Tấn Dũng, nhìn từ việc “trường kì bám ghế” của Nguyễn Phú Trọng thì ông ta khá thành công ở phần nhân trị. Dù vậy, thành tựu Pháp trị của Sĩ phu Bắc hà là mờ nhạt.

- Nguyễn Phú Trọng là Tiến sĩ xây dựng đảng, nhưng cái đảng của ông đang xây dựng toàn quy tụ các thành phần xôi thịt, vào đảng chăm chăm vì lợi ích, vinh thân phì gia, tham quyền đoạt vị. Nếu vào đảng không đi kèm với lợi lộc, thăng quan phát tài thì chắc chẳng có ai thèm vào làm gì cho tốn thời gian lẫn đảng phí. Nhà bao việc.

- Nguyễn Phú Trọng hô hào chỉnh đốn đảng, nhưng càng chỉnh đốn thì càng hư đốn. Quan chức nhũng nhiễu từ trung ương xuống địa phương, ra tận kênh mương ruộng đồng. Nạn quan liêu chưa từng giảm và bất chấp những lời nói của Nguyễn Phú Trọng về đảng viên học tập đạo đức, rèn luyện tư cách. Thực tế, kể từ khi Nguyễn Phú Trọng lên nắm quyền, nhân dân chưa bao giờ dễ thở hơn.

- Nguyễn Phú Trọng chưa từng ghi nhận về thành tựu hay khả năng phát triển kinh tế quốc gia. Ông ta kêu gọi trung thành với chủ thuyết cộng sản, chửi bới những ai không tin vào cộng sản là “thế lực thù địch”, “diễn biến hoà bình”, “suy thoái tư tưởng”. Nhưng rồi cũng chính ông ta ngậm ngùi “không biết đến hết thế kỷ này có xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội hay không”.

- Suốt 10 năm qua Nguyễn Phú Trọng liên tục nhắc nhở cần tập trung vào công tác nhân sự. Dù vậy, đến hôm nay ông ta nói không có nhân sự kế cận và rồi lấy lí do đó để ngồi lại làm trường hợp đặc biệt của đặc biệt, chiếm ghế Tổng Bí thư nhiệm kì 3. Nếu không phải ông Trọng tham quyền cố vị thì cần phải xem lại tư duy chiến lược của một người đứng đầu tổ chức đảng. Ông quản lý thế nào mà đảng của ông không có người đủ đức, đủ tài, xứng tầm làm lãnh đạo, để ông già 80 tuổi bệnh tật đầy mình, đi đứng không phải gánh vác trọng trách chăm lo cho 100 triệu dân đang thời kì dân số vàng?

Ngoài ra, một vấn đề nữa đó là những nhân sự do chính tay Nguyễn Phú Trọng chọn lựa lại liên tục dính kỉ luật hoặc rơi vào vòng lao lý. Thậm chí, sự tệ hại này lại diễn ra ở cấp cao nghiêm ngặt nhất là Trung Ương Đảng và Bộ Chính Trị.

Đơn cử như các trường hợp: Đinh La Thăng, Nguyễn Văn Bình, Hoàng Trung Hải, Trương Minh Tuấn, Nguyễn Đức Chung, Tất Thành Cang, Triệu Tài Vinh,... Toàn là những người do đích thân Nguyễn Phú Trọng chọn lựa khi còn làm Trưởng Tiểu ban nhân sự tại Đại hội 12.

- Trong nhiều năm qua Nguyễn Phú Trọng xây dựng hình ảnh của vị minh quân chống tham nhũng, nhưng chỉ có kẻ ngây thơ chính trị mới tin ông ta chống tham nhũng thật. Gốc rễ của vấn đề tham nhũng tại Việt Nam nằm ở cơ chế. Bộ máy nhà nước độc tài này sinh ra và nuôi dưỡng tham nhũng. Không dân chủ hoá đất nước, không để các tổ chức xã hội dân sự hoạt động, không gia tăng sự giám sát của nhân dân thì không bao giờ chống được tham nhũng.

Nguyễn Phú Trọng sử dụng chiêu bài chống tham nhũng để thoả mãn thủ đoạn thanh trừng phe phái đối thủ. Bằng chứng là ông ta xử hàng loạt các thanh “củi rừng” của phe đối thủ như Đinh La Thăng, Trịnh Xuân Thanh, Nguyễn Xuân Anh, Vũ Nhôm, Tất Thành Cang... nhưng các thanh “củi nhà” như Trà - Quý ở Yên Bái, Nguyễn Nhân Chính ở Bắc Ninh, Võ Kim Cự ở Hà Tĩnh, Triệu Tài Vinh ở Hà Giang, Trịnh Văn Chiến ở Thanh Hoá,... thì miễn nhiễm. Họ nghiễm nhiên đứng cạnh “chủ lò” dù cho những sai phạm đã rõ ràng.

Bên cạnh đó, cuộc chiến chống tham nhũng “không có vùng cấm” của Nguyễn Phú Trọng lại tuỳ loại củi. Đụng đối thủ phe cánh không mạnh thì ông ta hùng hổ “lò nóng rồi thì củi tươi hay củi khô vào cũng cháy”, nhưng đối với phe cánh mạnh thì ông ta nhẹ nhàng “chống tham nhũng cũng phải nhân văn”, “đập chuột nhưng không được làm vỡ bình”. Và đến nay những con hổ lớn như Lê Thanh Hải, Hoàng Trung Hải, Nguyễn Văn Bình vẫn bình an vô sự dù tàn phá khánh kiệt đất nước.

Thực tế, thành tích chống tham nhũng của Nguyễn Phú Trọng không làm cho xã hội Việt Nam trong sạch hơn, nó chỉ giúp cái ghế ông ta thêm vững vàng và phe cánh đàn em nắm nhiều trách vụ quan trọng hơn để sau này về vườn rồi, ông vẫn có thể thao túng, buông rèm nhiếp chính như thái thượng hoàng.

Ở cái độ tuổi xưa nay hiếm, lại tuổi cao sức yếu, lẽ ra Nguyễn Phú Trọng nên chọn nghỉ ngơi, sum vầy cùng con cháu. Cuối cùng, hạnh phúc của một đời người nên nằm ở những điều giản dị như vậy. Bám ghế, tham quyền cố vị để làm gì ở cái thời điểm gần đất xa trời!