Thứ Hai, 7 tháng 2, 2022

VÌ SAO VŨ NƯƠNG CHẾT ?

 (Hay việc đi tìm Di sản dân tộc)

THÁI HẠO

(Những sự thật đầy chua xót nhưng lại rất đúng, qua bài viết rất hay và công phu của nhà giáo Thái Hạo.)

***************

 

Buổi học đầu năm chuột, học trò thảo luận về “Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ. Các em nói, đại ý, cái chết của Vũ Nương là do tội ác của chế độ phong kiến. Tôi hỏi, “thời này con người còn ghen tuông không ?”, “có ạ”; “bên Mĩ họ có ghen không ?” “có ạ”; “và họ có chọn cách chết như Vũ Nương không ?”, “không ạ”… “thế thì cái việc sống chết này là do ai?”, “do mình ạ”. “Tại sao người cung nữ đau khổ ?”, “vì bị thất sủng ạ” “Cái sướng khổ của người Việt do đâu mà có nhỉ ?”, “do người khác mang lại ạ”. “Các em có nhận xét gì về ý thức cá nhân của người Việt ?” “chưa phát triển ạ”… “Các em hãy thử so sánh nhân vật Pênêlốp trong Ôđixê của Hi Lạp và Vũ Nương của Việt Nam trong hoàn cảnh tương tự !”...

1. Chúng ta có gì?

Việt Nam là đất nước không có tư tưởng. Người Việt chưa bao giờ lập thuyết. Nhìn lại lịch sử dân tộc chỉ thấy một một nỗi xót xa của kẻ vong bản ngay trên quê hương mình. Khoảng 1 ngàn năm phong kiến “độc lập” chúng ta sống bằng tư tưởng của người Hán với Nho giáo, với Lão – Trang... Khi người Pháp vào chúng ta sống bằng tư tưởng Pháp (và phương Tây nói chung), đó là một sự biến thiên ghê gớm – vô tiền khoáng hậu. Lần đầu tiên người Việt bắt đầu nhìn, nghĩ và nói không phải bằng “giọng” Hán thuần nhất nữa. Một cơ hội vĩ đại cắm một cái mốc có tính Bigbang cho sự thoát Trung của dân tộc. Nhưng rồi lịch sử, như một định mệnh, đã đưa người Việt đến với tư tưởng, cũng lại là ngoại lai, chủ nghĩa cộng sản của người Đức – được thực hành bởi người Nga. Và đến thời điểm này, chúng ta đang dừng lại ở đây. 4000 năm (nếu con số này là thật), đã trưng ra một diễn trình tư tưởng mà ở đó chúng ta hoặc bị cưỡng bức, hoặc đi xin; nhưng dù là thế nào thì chúng ta cũng chưa bao giờ có triết học của mình. Một dân tộc luôn tự hào với văn hiến lâu đời, thật không thể hiểu nổi, khi nó lại không có “suy nghĩ” riêng, nó đã sống bằng cái đầu của người khác ít nhất là hơn 1000 năm qua, từ khi nó tuyên bố độc lập.

Triết học là suy tư ở cõi thế và cho cõi thế, tôn giáo ra đời bởi những câu hỏi có liên quan tới đời sống sau khi chết / một đời sống có tính bản thể / siêu hình. Xét ở góc độ nào đó, thì tôn giáo chứng tỏ một truy vấn sâu hơn triết học. Và chúng ta cũng không có tôn giáo! Chúng ta biến những tư tưởng / học thuyết xã hội của Nho, Lão thành tín ngưỡng, và biến những tư tưởng triết học của Phật giáo thành chuyện cầu cúng.

Cả 2 phương diện làm thành nền móng cho linh hồn một dân tộc là triết học và tôn giáo chúng ta đều không có. Người Việt đã sống tạm bợ suốt cả ngàn năm qua trên chính mảnh đất của mình. Điều ấy chỉ chứng tỏ rằng người Việt không có thói quen suy tư, là một dân tộc “lười suy nghĩ”. Nó lười tới mức không buồn sáng tạo ra chữ viết cho riêng mình ! Cái biểu hiện và dấu vết đầu tiên cho sự trưởng thành của một dân tộc là chữ viết, nhưng chúng ta ban đầu là dùng chữ của người Hán (chữ Nôm cũng chỉ là một loại “biến thể” Hán), đến khi người Tây vào thì dùng chữ La Tinh của người Tây. Chữ viết là phương tiện để ghi lại tiếng nói của một tộc người, nhằm truyền đạt và lưu giữ những giá trị tinh thần. Cái nhu cầu về chữ viết chỉ xuất hiện khi sự sáng tạo văn hóa đạt đến 1 trình độ nhất định ở chiều sâu và sự phức tạp của tinh thần mà tiếng nói truyền miệng không đảm bảo cho sự bảo lưu ấy được vẹn nguyên nữa; và đồng thời đó cũng là sản phẩm của ý thức đã trở thành tự giác nơi cộng đồng ấy với tư tưởng muốn khẳng định và tôn vinh nền văn hóa của mình…Nói tóm lại, chữ viết là sản phẩm đánh dấu một dân tộc đã bước vào ngưỡng của của văn minh. Và chúng ta đã không có điều ấy.

Người Việt không có văn học. Trước khi người Pháp vào chúng ta làm thơ Hán, văn học chữ Nôm chưa bao giờ trở thành chính thống bới cả về số lượng và chất lượng (trừ vài trường hợp đặc biệt); khi người phương Tây vào chúng ta sáng tác văn học theo kiểu phương Tây; những năm “cách mạng” chúng ta viết kiểu văn học Xô – Viết. Viên đá tảng của mọi nền văn học là sử thi thì chúng ta cũng không có. Việt Nam không có sử thi (trong khi các dân tộc “mọi rợ” lại sáng tác nên những pho sử thi hoành tráng – Đam Săn của người Ê Đê chẳng hạn). Việt Nam cũng không có truyền thống tiểu thuyết. Vài tác phẩm có giá trị cũng chỉ có dung lượng khoảng vài trăm trang (nếu viết dài hơn thì trở nên dở).

Và chúng ta hiểu, tại sao các nhà nghiên cứu văn hóa lại khó khăn đến thế khi đi tìm bản sắc văn hóa Việt Nam (tất nhiên là để ca ngợi).

2. Người Việt sống bằng gì ?

Thiền Sư Nhất Hạnh một đời dấn thân và những lầm lẫn

(Tựa gốc: Thiền Sư Nhất Hạnh một đời dấn thân).

“Về chính trị, nếu tôi không lầm, ông chỉ viết có một cuốn duy nhất là Hoa Sen Trong Biển Lửa, Trong sách này ông xem Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam là một lực lượng chính danh đại diện cho nhân dân miền Nam.”

“Ông lên án các vi phạm nhân quyền và tự do tôn giáo tại miền Nam mặc dù trong thời gian này quyền tự do tôn giáo được bảo đảm. Ông đòi hỏi chính quyền Saigon thương thuyết với MTDTGPMN để chấm dứt chiến tranh, mặc dù tổ chức này chỉ là công cụ của Hà Nội.”

“Thiền sư Nhất Hạnh chống chiến tranh mà chỉ chống Hoa Kỳ và miền Nam Việt Nam mà không chống miền Bắc mang quân vào xâm chiếm miền Nam. Ông chống Mỹ ném bom vào tỉnh Bến Tre và có những số liệu gây tranh cãi mà không chống CSVN tàn sát dân vào Tết Mậu Thân tại Huế. Ông chống miền Nam thiếu tự do, nhưng không chống miền Bắc độc tài đảng trị, chà đạp nhân quyền và tôn giáo tàn bạo. Chính Làng Mai của ông ở Lâm Đồng thiết lập vào 2005 bị tàn phá vào 2009 mà ông bất lực.”

3098. Thiền sư Thích Nhất Hạnh từng kiến nghị để Phật giáo VN ‘tách khỏi Nhà nước’

3100. Thích Nhất Hạnh: Chánh niệm hay chánh trị?

3111. Thầy Nhất Hạnh mất đi, nỗi buồn Việt Nam vẫn còn đó

VOA Tiếng Việt

05/02/2022

Nguyễn Quốc Khải



Cuối đời Thiền Sư Thích Nhất Hạnh toan tính cảm hóa CSVN theo con đường nhân bản, cho tự do tôn giáo… nhưng ông đã thất bại.

Vài ngày nay có khá nhiều góp ý về Thiền Sư Thích Nhất Hạnh kể từ khi ông qua đời vào ngày 22/1/2022. Một cách tổng quát, có hai ý kiến trái ngược nhau ca ngợi và chỉ trích mãnh liệt. Xét cho cùng hai bên đều có thể đúng. Một bên ca ngợi ông về mặt triết lý của cuộc sống và mục tiêu là mưu cầu hạnh phúc, đặc biệt là phương pháp thiền của ông giúp con người sống an nhiên tự tại. Một bên phê phán ông về mặt chính trị dựa trên tinh thần quốc gia dân tộc.

Một đời viết sách

Tính đến 1/2019, thiền sư Nhất Hạnh đã xuất bản trên 130 cuốn sách, bao gồm trên 100 cuốn bằng Anh ngữ và bán được trên năm triệu cuốn trên thế giới. Sách của ông được dịch ra trên hơn 40 ngôn ngữ và viết về những đề tài như hướng dẫn về tâm linh, Phật điển (Buddhist texts), lời dạy về tỉnh thức (mindfulness), thơ và truyện, và những bài tiểu luận về thiền học.

Thiền sư Nhất Hạnh viết rất nhiều về cuộc sống, giúp ích cho mọi gia đình, mọi tôn giáo. The Art of Mindfulness (Nghệ Thuật Sống Tỉnh Thức) bán được 200,000 cuốn chỉ riêng tại Hoa Kỳ. Giám Đốc Ngân Hàng Thế Giới Jim Jong Kim gọi cuốn sách Phép Mầu của Chánh Niệm (Miracle of Mindfulness) là cuốn sách ưa thích nhất của ông. Ngoài ra ông Nhất Hạnh còn có nhiều sách nổi tiếng khác như Bông Hống Cài Áo, Muốn An Được An, Hạnh Phúc Cầm Tay, Giận, Chỉ Nam Thiền Tập Dành Cho Người Trẻ, Phép Lạ Của Sự Tỉnh Thức, Thả Một Bè Lau, Bước Tới Thảnh Thơi, Tâm Tình Với Đất Mẹ, Thiền Tập Cho Người Bận Rộn, Con Đường Chuyển Hóa, Gieo Trồng Hạnh Phúc, Để Có Một Tương Lai, Tìm Bình Yên Trong Một Gia Đình.

Ông viết ít hơn về đạo Phật. Sách về Phật giáo gồm Đạo Phật Cho Tuổi Trẻ, Đạo Phật Ngày Nay, Đạo Phật Đi Vào Cuộc Đời, Đường Xưa Mây Trắng, Đạo Bụt Nguyên Chất, Bụt Là Hình Hài, Bụt Là Tâm Thức, Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, Sen Nở Trời Phương Ngoại. Trong tác phẩm của mình, ông phát huy một ý niệm mới về Phật giáo dấn thân. Theo đó, triết lý và những điều răn dạy của Phật giáo, những bài học về đức tin, có thể áp dụng vào phúc lợi của con người trong các lãnh vực giáo dục, y tế và chính trị. Tức là đạo vào đời. Trong phần sau, người đọc sẽ thấy ông chủ xướng Phật giáo dấn thân, nhưng áp dụng tùy lúc, tùy nơi.

Về chính trị, nếu tôi không lầm, ông chỉ viết có một cuốn duy nhất là Hoa Sen Trong Biển Lửa, Trong sách này ông xem Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam là một lực lượng chính danh đại diện cho nhân dân miền Nam. Ông không trực tiếp tham gia hoạt động chính trị, nhưng thái độ và những hành động mang tính cách chính trị của ông gây nhiều tranh cãi và hậu quả về sau như chúng ta sẽ thấy ở một phần dưới đây.

Vận động hòa bình

Chủ Nhật, 30 tháng 1, 2022

Chúc mừng năm mới Nhâm Dần của trang web Bauxite Việt Nam

 


Đội ngũ cộng tác viên thân yêu và bạn đọc quý mến!

      Chúng tôi đang cùng quý bạn chia tay một năm Tân Sửu (2021) và bước sang một năm Nhâm Dần (2022) với nhiều cảm giác chẳng lấy gì làm ngọt ngào. Một năm Tân Sửu tiếp liền với năm Canh Tý (2020) trước đó là hai năm đại dịch bùng phát trên phạm vi toàn cầu, đẩy nhân loại vào vòng khốn khó với bao nhiêu nỗi đắng cay chồng chất: chạy dịch, trốn dịch, chết dịch, đeo khẩu trang, sống cách ly, ngoáy mũi hàng ngày vì dịch. Trường học đóng cửa, nhà máy dừng sản xuất, tàu xe đình trệ, bệnh viện quá tải, vacxin không có, lò thiêu xác hết chỗ, đi kèm theo đó là hàng hóa khan hiếm, lạm phát tăng cao, đói khát, mất việc… đều từ đại dịch mà liên tiếp phát sinh. Cả thế giới bị cuốn vào một cơn bão lốc cho đến hôm nay vẫn chưa thuyên giảm, mà hầu như tất cả mọi nạn nhân, hàng chục tỷ người trên khắp hành tinh, từ Bắc cực đến Nam cực, từ Đông bán cầu đến Tây bán cầu,… không một cá nhân, cá thể nào chủ động được hành xử của mình.

Tất nhiên Việt Nam không đứng ngoài cơn cuồng phong hỗn loạn. Ở chặng khởi đầu, Việt Nam có một may mắn là con covid-19 ghé thăm tương đối chậm. Khi đại dịch đã bùng lên khủng khiếp ở Vũ Hán và tràn sang hầu khắp các nước Âu và Mỹ khiến phương Tây cuống cuồng lo đối phó, thì ở VN chỉ mới lác đác xuất hiện một vài cho đến dăm ba chục vụ, chủ yếu là du khách người Việt trở về từ nước ngoài, rước theo cả covid cùng về. Và cả bộ máy ào lên đối phó, cố nhiên là đối phó được ngay. Các cas F0 đều bị chăng dây cách ly với cộng đồng. Những người dương tính mới đếm trên đầu ngón tay cũng lập tức được đem đi tập trung chữa trị, dứt điểm chóng vánh. Phải thừa nhận đó là một phản ứng tích cực. Kết quả sớm được thông báo lên đài: hết thảy những ai bị nhiễm covid ở Việt Nam thời gian qua đều đã được đội ngũ bác sĩ tận tình chữa trị xong, kể cả một ông khách người Anh nhiễm bệnh nặng. Còn ai mà không vui thích! Tuy vậy, mặt trái của thắng lợi này là làm cho tâm lý chủ quan có dịp trỗi dậy,  dự cảm tỉnh táo về những gì không hay sẽ có thể còn xẩy tới - điều cực kỳ quan trọng - bị đẩy xuống hàng thứ yếu, hoặc bị khuất lấp đi. Bộ máy tuyên truyền được dịp tăng tần số phát rộng rãi ra khắp năm châu, khiến thế giới sẵn lòng tin rằng tại mảnh đất hình chữ S ở vùng Đông Nam Á có một nhà nước biết xây dựng cả một chiến lược phòng và chống dịch hiệu quả và thần tốc. Dân chúng càng thêm phấn khởi khi nghe bề trên nói năng mạnh miệng: Nếu cột điện ở Mỹ mà biết đi thì nó cũng tìm cách về Việt Nam để chữa trị covid (1).

Thứ Năm, 13 tháng 1, 2022

Tư bản thân hữu và mối liên hệ với thể chế của Việt Nam

 Tìm hiểu về một biến thể của chủ nghĩa tư bản trong mối tương quan với Việt Nam.

Published

  

on

 
Từ trái qua: ông Lê Viết Lam (người sáng lập Sun Group), ông Phạm Nhật Vượng (người sáng lập Vingroup), ông Trịnh Văn Quyết (người sáng lập FLC). Nguồn: khudothixanh.net, Báo Tuổi Trẻ, afamily.vn. Ảnh nền: Getty Images.

“Tư bản thân hữu” là gì?

Tư bản thân hữu là một khái niệm không quá xa lạ với giới nghiên cứu khoa học chính trị và pháp lý.

Thuật ngữ tiếng Anh của từ này, “crony capitalism”, là sự kết hợp hai thành tố giữa:

  • Chủ nghĩa tư bản (capitalism): mô hình kinh tế nơi mà quyền tư hữu được đặt lên hàng đầu. Theo đó, nhà nước bảo đảm rằng các hoạt động kinh tế được vận hành dựa trên quyền tự do sở hữu, môi trường tự do cạnh tranh và các chủ thể kinh tế tự do theo đuổi các mục tiêu lợi ích của mình.
  • Chủ nghĩa thân hữu (cronyism): một loại tư duy/ định hướng hành vi, trong đó các lợi ích, ưu thế, quyền lực hoặc thông tin có giá trị được phân bổ cho người thân, bạn bè, hay các chủ thể khác dựa trên sự tin tưởng, thay vì dựa trên các chuẩn mực công bình hay minh bạch.

Như vậy, tư bản thân hữu có thể hiểu là một mô hình kinh tế nơi mà quyền tư hữu và quyền tự do kinh doanh được bảo vệ về mặt hình thức. Tuy nhiên, trong mô hình này, cấu trúc nhà nước không bảo đảm được môi trường tự do cạnh tranh. Thay vào đó, nó tạo cơ hội ưu đãi cho một số chủ thể kinh tế có kết nối chính trị/ huyết thống/ xã hội với các chủ thể nắm quyền nhà nước.

Điều này có thể được thực hiện bằng nhiều biện pháp khác nhau, thông qua chính sách, pháp luật, rào cản đăng ký, truyền thông, hay độc quyền thị trường tạm thời, v.v.

Vấn đề tư bản thân hữu đặc biệt liên quan đến tình hình kinh tế của các quốc gia đang phát triển.

Nếu xét theo các sự kiện bề nổi của vụ bê bối về bộ xét nghiệm COVID-19 của Việt Á, với sự hậu thuẫn của cơ quan chính quyền trung ương thông qua quy trình “cấp phép”, [1] nhận chỉ định thầu/ giá độc quyền tại địa phương, [2] được ca ngợi bằng hệ thống báo chí lẫn các cơ quan ban ngành, [3] tính thân hữu nhất định của Việt Á bên trong hệ thống chính trị để tạo nên các ưu đãi đó, dù chưa có thông tin cụ thể và rõ ràng, vẫn có thể cảm nhận được.

Ông Phan Quốc Việt, tổng giám đốc công ty Việt Á (ảnh trái), cùng những người đã bị khởi tố điều tra trong vụ án Việt Á. Nguồn: Báo Người Lao Động.

Tư bản thân hữu khác gì với hối lộ?

Thứ Bảy, 1 tháng 1, 2022

KIẾN NGHỊ 117: YÊU CẦU HỦY BỎ 3 ĐIỀU CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015

 

 

(PETITION 117: TO ABOLISH 3 ARTICLES IN VIETNAM’S 2015 CRIMINAL CODE – English below)

XIN MỞ TRANG WEB SAU ĐÂY ĐỂ KÝ TÊN HƯỞNG ỨNG (PLEASE OPEN THE WEBSITE BELOW TO SIGN THE PETITION):

https://docs.google.com/forms/d/e/1FAIpQLSf5bTQIsffMCyQeJ6SUEAKr5CWBRSyW9x4cJoxQ3wHbdBfdUQ/viewform



KIẾN NGHỊ 117: YÊU CẦU HỦY BỎ 3 ĐIỀU CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015

Ngày 01-01-2022

Kính gửi:
– Chủ tịch nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Trưởng ban Chỉ đạo Cải cách Tư pháp Nguyễn Xuân Phúc;
– Chủ tịch Quốc Hội nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam Vương Đình Huệ;
– Các Đại biểu Quốc Hội nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Thưa quý vị,

1) Bốn mươi năm trước, năm 1982, Việt Nam đã tham gia Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị (ICCPR). Đây là luật quốc tế và Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa (CHXHCN) Việt Nam phải có nghĩa vụ thực thi và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho công dân Việt Nam thực thi – và ngăn chặn các cơ quan chấp pháp vi phạm – các quyền dân sự và chính trị của mình được quy định trong luật quốc tế này.

2) Hiến pháp 2013 của CHXHCN Việt Nam quy định:

– “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật” (Điều 14.1).

– “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định” (Điều 25).

Nghĩa vụ của Quốc hội là phải ban hành các (điều) luật để đảm bảo cho công dân có thể thực thi các quyền của mình. Các (điều) luật này có 2 khía cạnh. Một mặt (2.a) liên quan đến các hạn chế quyền, thì luật phải nêu chi tiết rõ ràng không thể hiểu lầm, nếu nêu quá rộng hay mơ hồ thì chính quốc gia tham gia ICCPR, tức là CHXHCN Việt Nam, vi phạm Điều 2 của luật quốc tế ICCPR. Mặt khác (2.b) liên quan đến những cá nhân và cơ quan vi phạm và cản trở các quyền của công dân, thì nhất thiết phải có quy định để trừng trị (nếu Quốc hội thực sự muốn người dân và các cơ quan công quyền tôn trọng Hiến pháp).

3) Đáng tiếc, Quốc hội đã không ra những luật cụ thể tạo thuận lợi cho công dân thực thi các quyền theo các Điều 14.1 và 25 của Hiến pháp và các hạn chế cụ thể, trong khi đó lại thông qua nhiều điều luật của các luật khác nhau liên quan đến hạn chế quyền, những điều luật này vi phạm đúng điều đã nêu ở điểm (2.a) nói trên: quá rộng và mơ hồ, dẫn đến những sự vi phạm nghiêm trọng luật quốc tế, bị các cơ quan của Liên Hiệp Quốc (LHQ) lên án gay gắt. Liên quan đến khía cạnh trừng phạt nêu ở điểm (2.b) nói trên, thì cũng không có quy định rõ ràng. Điển hình là 3 điều của các bộ luật Hình sự (1999 và 2015) hết sức mơ hồ và có thể bị một số cá nhân và cơ quan chấp pháp lạm dụng để cản trở công dân thực hiện các quyền hiến định của mình cũng như các quyền được quy định trong ICCPR, như thế chính những cá nhân và cơ quan chấp pháp vi phạm luật quốc tế, vi phạm hiến pháp và vi phạm luật chứ không phải công dân bị vu cho các tội ấy. Những kẻ lạm dụng, cản trở lại không bị trừng trị vì thiếu vế (2.b) trong các điều luật. Các vị đại biểu Quốc hội đã bỏ phiếu thông qua các luật này không thể thoái thác trách nhiệm của mình!

Ba điều đó là Điều 79 (BLHS 1999) tương ứng với Điều 109 (BLHS 2015), Điều 88 (BLHS 1999) tương ứng với Điều 117 (BLHS 2015) và Điều 258 (BLHS 1999) tương ứng với Điều 331 (BLHS 2015).

Do Quốc Hội còn nợ các luật liên quan đến Điều 25 Hiến pháp cho nên không có cơ sở pháp lý cho 3 điều này của Bộ Luật Hình sự.

3.1) Các Điều 79 (BLHS 1999) và 109 (BLHS 2015) về “tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” không được quy định rõ ràng nên trong thời gian qua đã có 52 người bị bắt tù theo hai điều luật này với 3 án tù chung thân, 2 người chưa xử và 47 người bị kết án tổng cộng hơn 550 năm tù giam; sự mơ hồ của điều luật này đã tạo cớ cho những sự vi phạm luật quốc tế, vi phạm Hiến pháp một cách nghiêm trọng và vì thế cần được hủy bỏ (hay sửa đổi với quy định rất rõ để không ai có thể hiểu lầm được). “Lật đổ” theo từ điển Tiếng Việt (Trung tâm Từ điển học) có nghĩa là “làm cho sụp đổ bằng bạo lực”. Tuyệt đại đa số những người bị tuyên án về tội này đều sử dụng các biện pháp ôn hòa và các quyền hiến định của họ [ngay cả Hồ Chí Minh khi nói “dân có quyền đuổi chính phủ” chắc cũng bị vu cho tội này nếu như ông còn sống].

3.2) Các Điều 88 (BLHS 1999) về “tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam” và Điều 117 (BLHS 2015) về “Tội làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam” (điều này vẫn hết sức mơ hồ, và nặng hơn Điều 88 trước kia) với 59 người bị bắt vì các tội nêu trong hai điều trên, trong số đó 7 người chờ xử và 52 người còn lại đã bị kết án tổng cộng 400 năm tù giam. Quy định mơ hồ, dễ cho các cơ quan chấp pháp diễn giải và vu cho bất kể ai thực hiện các quyền hiến định trong Điều 25 của Hiến pháp là vi phạm pháp luật, có thể bị bắt, bị kết án tù nặng. Vì thế cần hủy bỏ Điều 117 và không quy kết bất cứ ai theo Điều 88 nữa (Phạm Đoan Trang đã bị quy kết theo Điều 88 khi Điều 117 đã có hiệu lực).

3.3) Kỳ lạ hơn nữa là các Điều 258 (BLHS 1999) và 331 (BLHS 2015) về “tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”. Cho đến nay đã có 23 người bị bắt trong đó 11 người đã bị tuyên phạt hơn 50 năm tù giam. Những điều luật này nhằm hạn chế các quyền được nêu trong các Điều 24 và 25 của Hiến pháp, rõ ràng vi phạm ICCPR. Việc lợi dụng các quyền trên từ phía công dân là vô nghĩa, và giả như ai đó (tổ chức, cá nhân) bị xâm phạm lợi ích thì người bị hại đó nên kiện người bị cho là xâm phạm ra tòa án dân sự. Trong tất cả các phiên xử 11 người theo Điều 258 hay Điều 331 không có sự hiện diện của bất cứ “người bị hại” nào bất chấp yêu cầu của các luật sư. Phải hủy bỏ hoàn toàn Điều 331 phi lý, vi hiến và vi phạm luật quốc tế này.

Những quy định mơ hồ của các Điều 109, 117 và 331 của Bộ luật Hình sự đã mở đường cho các cơ quan chấp pháp vi phạm nghiêm trọng Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị, vì thế Việt Nam bị các tổ chức quốc tế, các nước dân chủ và cả các cơ quan LHQ lên án (thí dụ các phán quyết của Nhóm Công tác về Bắt giữ Tùy tiện của LHQ, Văn phòng Cao ủy LHQ về Nhân quyền gần đây, nhất là vụ liên quan đến nhà báo Phạm Đoan Trang) làm tổn hại nghiêm trọng đến danh dự của Việt Nam trước thế giới.

Trong số 134 người bị bắt và bị bỏ tù vì 3 điều này, số bị tù trong 5 năm qua (2017-2021) lên đến 93 người, trong đó trong hai năm (2020-2021) lên đến 35 người và chỉ riêng từ 14 đến 31 tháng 12 năm 2021 đã có 5 người bị tuyên các bản án hết sức nặng nề (Phạm Đoan Trang, Trịnh Bá Phương, Nguyễn Thị Tâm, Đỗ Nam Trung và Lê Trọng Hùng) khiến dư luận quốc tế hết sức bất bình.

Vì các lý do nêu trên, nhằm tôn trọng các quyền hợp pháp của công dân Việt Nam được nêu trong Hiến pháp, các luật quốc tế mà Việt Nam đã tham gia, cũng như bảo vệ danh dự của Việt Nam trước thế giới, chúng tôi, các tổ chức và cá nhân ký tên sau đây yêu cầu trả tự do cho tất cả các tù nhân chính trị và đồng kiến nghị quý vị làm tròn bổn phận của mình bằng việc:

– Hủy bỏ các Điều 117 và 331 của Bộ luật Hình sự 2015;
– Hủy bỏ (hoặc sửa đổi bằng quy định rõ ràng để không ai có thể hiểu lầm) Điều 109 của Bộ luật Hình sự 2015.

Xin trân trọng cảm ơn.



—–

PETITION 117

To Abolish Three (3) Articles in Vietnam’s 2015 Criminal Code

January 1, 2022

To:

  • Nguyen Xuan Phuc – President of the Socialist Republic of Vietnam; Chairman of the Committee on Judiciary Reform
  • Vuong Dinh Hue — Chairman of the National Assembly
  • All Delegates to the National Assembly

Subject: Request that Article 117 and Article 331 of the 2015 Criminal Code be abolished, and Article 109 be either abolished, amended or modified.

Dear Sirs and Madams,

Exactly forty years ago, in 1982, the Socialist Republic of Vietnam became a signatory to the International Covenant on Civil and Political Rights (ICCPR). Consequently, Vietnam has an obligation to abide by the rules set forth therein, to make it easier for its citizens to exercise those rights which are protected by the Covenant, and to prevent law enforcement from violating those rights. The 2013 Constitution of Vietnam specifically states:

  • “In the Socialist Republic of Vietnam, human rights and the rights of citizens in the political, economic, cultural and social spheres are acknowledged, respected, protected, and guaranteed by the Constitution and the law.” (Article 14.1)
  • “Citizens have freedom of speech, freedom of the press, freedom to seek information, to meet, to form associations, to protest. Their ability to exercise these freedoms shall be encoded by legislations. (Article 25)

The National Assembly has the duty to create laws guaranteeing that citizens can exercise those constitutional rights. These laws have two main requirements. The first is to define the limits of a person’s rights — the laws must spell out precisely what’s not allowed so that there won’t be any confusion. If the laws are too broad or too vague then they won’t comply with Article 2 of the ICCPR. The second requirement is to make clear the consequences for those who violate or obstruct the rights of citizens..

Up to now, the National Assembly has not created any laws with enough specificity to make it easy for citizens to exercise their rights according to Articles 14.1 and 25 of the Constitution with clearly defined limitations therewith. At the same time, it has passed laws that limit citizens’ rights; these laws in fact violate the first requirement stated above: they are too broad and too vague, which have led to serious infractions of international rules and thus have been severely criticized by the UN.

Regarding appropriate punishment, as pointed out in the second requirement, there still are no clear guidelines. This can easily be seen in three Articles in the Criminal Codes of 1999 and 2015. Those articles are so opaque and so ill-defined that they can easily be, and indeed have been, abused by law enforcement to prevent citizens from exercising not only their constitutional rights but also those defined by the ICCPR. As a matter of fact, the people guilty of breaking international laws have been individuals who work in law enforcement and not the citizens whom they have wrongly accused.

Specifically, three Articles that must immediately be addressed are:  Article 79 of the 1999 Criminal Code (1999-CC) equivalent to Article 109 of the 2015 Criminal Code (2015-CC); Article 88 (1999-CC) or Article 117 (2015-CC); and Article 258 (1999-CC) or Article 331 (2015-CC). Because the National Assembly have yet to produce the required statutes related to Article 25 of the Constitution, there is no legal basis for the existence for these three articles at all.

Articles 79 (1999-CC) and 109 (2015-CC) —  “activities aimed to overthrow the people’s government” — are so vague that in the past some 52 people have been convicted for them — three life sentences, two have yet to be tried, and 47 prison sentences with a total of more than 550 years combined. Article 88 (1999-CC), “propaganda against the Socialist Republic of Vietnam,” and Article 117 (2015-CC), “create, store, distribute or propagate information, documents, products to oppose the Socialist Republic of Vietnam” (which is even more vague and much more severe than its 1999 version) have resulted in 59 arrests. Of those, seven are awaiting trial, the other 52 have been sentenced to more than 400 years in prison in total.

But most bizarre are Articles 258 (1999-CC) and 331 (2015-CC). The articles state that  “Whoever abuses the freedom of speech, freedom of the press, freedom of faith and religion, freedom of meeting, association and other freedom of democracy that violate the interests of the State, rights, legal interests of organizations, individuals [victims], shall be given warning, re-educated, detained no more than 03 years, or imprisoned from 06 months to 03 years.” As of today, twenty-three (23) individuals have been arrested for this; of those, eleven (11) have been sentenced to a total of more than 50 years in prison.

These laws are written to restrict the rights afforded by Articles 14 and 25 of the Constitution and therefore violate the ICCPR. The vagueness of Articles 109, 117 and 331 of the Criminal Code has opened up an avenue for law enforcement agencies to trample on the International Covenants on Civil and Political Rights.

Based on the above stated reasons, with the desire to respect the legal rights of Vietnamese citizens as stated in the Constitution and enshrined in international covenants which Vietnam is a signatory, and to protect the reputation of Vietnam before the world — we, the undersigned, respectfully request that all political prisoners be immediately released, and collectively recommend that this government fulfill its governing duties by doing the following:

  • Abolish Articles 117, 331 in the 2015 Criminal Code
  • Abolish (or modify in such a way to eliminate abuse by misinterpretation) Article 109 of the 2015 Criminal Code.

Thank you kindly.

The list of individuals and organizations signing this petition is attached below.

DANH SÁCH CÁC TỔ CHỨC VÀ CÁ NHÂN KHỞI XƯỚNG

TỔ CHỨC:

  1. Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng. Đại diện: Võ Văn Thôn, nguyên Gíam đốc Sở Tư Pháp TP HCM
  2. Ban vận động Văn đoàn độc lập. Đại diện: Nhà văn Nguyên Ngọc
  3. Diễn đàn Xã hội dân sự. Đại diện: TS Nguyễn Quang A
  4. Lập quyền dân. Đại diện: Nhà nghiên cứu văn hoá Nguyễn Khắc Mai
  5. Trung tâm nghiên cứu văn hóa Minh Triết. Đại diện: Nhà nghiên cứu văn hoá Nguyễn Khắc Mai
  6. Diễn đàn Bauxite Vietnam. Đại diện: GS Phạm Xuân Yêm
  7. Câu lạc bộ Nguyễn Trọng Vĩnh. Đại diện: TS Mạc Văn Trang

CÁ NHÂN:

1- Nguyễn Khắc Mai, Hưu trí Hà Nội

2- Nguyên Ngọc, Nhà văn, Hội An, Quảng Nam

3- Lê Xuân Khoa, nguyên GS Thỉnh giảng, ĐH Johns Hopkins, Hoa Kỳ

4- Phạm Xuân Yêm, GS Vật lý, Paris, Pháp

5- Nguyễn Huệ Chi, GS Ngữ văn, Hà Nội

6- Nguyễn Đình Nguyên, TS Y khoa, Australia

7- Phan Hoàng Oanh, TS Hóa Học, Sài Gòn

8- Nguyễn Mai Oanh, Ths Kinh tế Phát triển, Sài Gòn

9- Hoàng Hưng, Nhà thơ, cựu Tù nhân lương tâm (1982-1985), Sài Gòn

10- Đào Công Tiến, nguyên Hiệu trưởng Đại học Kinh tế TP HCM, thành viên CLB Lê Hiếu Đằng

11- Hồ Ngọc Nhuận, Nhà báo, nguyên Phó chủ tịch MTTQVN TP HCM, nguyên Ủy viên trung ương MTTQVN, thành viên CLB Lê Hiếu Đằng

12- Nguyễn Quang A, Tiến sĩ Tin học, Hà Nội

13- Nguyễn Nguyên Bình, Nhà văn, thành viên CLB Nguyễn Trọng Vĩnh, Hà Nội

14- Vũ Trọng Khải, Phó GS TS  Nông nghiệp, TP HCM

15- Phạm Đình Trọng, Nhà văn, thành viên CLB Lê 0Hiếu Đằng, Sài Gòn

16- Kha Lương Ngãi, nguyên Phó TBT báo SGGP, ban chủ nhiệm CLB Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn

17- Mạc Văn Trang, Nhà giáo, Sài Gòn

18- Nguyễn Thị Kim Chi, Nghệ sĩ, Đạo diễn, thành viên CLB Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn

19- Nguyễn Hữu Vinh (Ba Sàm), Hà Nội

20- Hoàng Dũng, PGS TS Ngữ văn, TP HCM

21- Phùng Hoài Ngọc, Thạc sỹ, cựu giảng viên đại học, Hà Nội

22- Trần Bang, Kĩ sư, thành viên CLB Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn

23- Ngô Kim Hoa, Nhà báo tự do, Sài Gòn

24- Trần Minh Thảo, Viết văn, Bảo Lộc, Lâm Đồng

25- Lê Thân, Nhà hoạt động xã hội , ban chủ nhiệm CLB Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn

26- Phan Trọng Khang, Thương binh 2/4, Hà Nội

27- Võ Văn Tạo, Nhà báo, Nha Trang

28- Trần Tiến Đức, Nhà báo độc lập, Đạo diễn truyền hình và phim tài liệu, Hà Nội

29- André Menras (Hồ Cương Quyết) thành viên CLB Lê Hiếu Đằng, Paris, Pháp

30- Bùi Nghệ, Công dân, Sài Gòn

31- Nguyễn Thị Thanh Bình, Nhà văn, Hoa Kỳ

32- Vũ Ngọc Tiến, Nhà văn, Hà Nội

33- Lại Thị Ánh Hồng, Nghệ sĩ , thành viên CLB Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn

34- Hoàng Thị Hà, Hưu trí, Thanh Xuân, Hà Nội

35- Lê Nguyên Hoàng, Nghề tự do, Hà Nội

36- Nguyễn Tiến Dân, Nhà giáo về hưu, Hà Nội

37- Nguyễn Thị Khánh Trâm, Nghiên cứu viên, hưu trí, TP HCM

38- Đỗ Như Ly, Hưu trí, Sài Gòn

39- Hà Dương Tường, Nhà giáo về hưu, Paris, Pháp

40- Phạm Tư Thanh Thiện, Nhà báo, Paris, Pháp

41- Nguyễn Ngọc Giao, Nhà giáo, Paris, Pháp

42- Hoàng Cường, Kỹ sư giao thông, Hà Nội

43- Vũ Mạnh Hùng, Nhà giáo, Hà Nội

44- Nguyễn Xuân Diện, TS Hán Nôm, Hà Nội

45- Nguyễn Trường Thịnh, Nghệ sĩ tự do, Hà Nội

46- Bùi Minh Quốc, Nhà thơ, Đà Lạt, Lâm Đồng

47- Nguyễn Thị Hoàng Bắc, Nhà văn, Hoa Kỳ

48- Tô Lê Sơn, CLB Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn

49- Trần Huy Quang, Nhà văn, Hà Nội

50- Hà Quang Vinh, Hưu trí, TPHCM

51- Nguyễn Đức Tùng, Nhà thơ, Vancouver, Canada

52- Nguyễn Hồng Hưng, Nghệ sĩ thị giác, Sài Gòn

53- Trần Kế Dũng, Australia

54- Nguyễn Văn Tạc, Nhà giáo về hưu, Hà Nội

55- Đinh Đức Long, Tiến sĩ-Bác sĩ, Sài Gòn

56- Hồ Sĩ Quyết, youtube Creator, Nghệ An

57- Nguyễn Thanh Hà, Tả Thanh Oai, Thanh Trì, Hà Nội

58- Phạm Thị Lân, Hạ Đình, Thanh Xuân , Hà Nội

59- Nguyễn Thị Lành, Quảng Xương, Thanh Hóa

60- Cao Vĩnh Thịnh, Nghệ An

61- Tạ Mạnh Hưng, Nghệ An

62- Phạm Đức Nguyên, Phó GS TS

63- Phan Quốc Tuyên, Kỹ sư tin học, Thụy Sĩ

64- Hà Dương Tuấn, nguyên chuyên gia CNTT, Paris, Pháp

65- Trần Hải Hạc, nhà giáo về hưu, Paris, Pháp

66- Tiêu Dao Bảo Cự, nhà văn tự do, Đà Lạt, Lâm Đồng

67- Lê Phú Khải, Nhà báo, ban chủ nhiệm CLB Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn

68- Trần Thế Việt, nguyên Bí thư Thành ủy Đà Lạt, Lâm Đồng

69- Tử Đinh Hương, Nhà giáo, Hà Nội

70- Châu Văn Phận, nguyên Giảng viên Đại học, Sài Gòn

71- Chu Hảo, nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ, Hà Nội

72- Nguyễn Viễn, Kĩ sư, Hải Phòng

73- Lê Quốc Quân, Luật gia, Hà Nội

74- Đặng Bích Phượng, Hưu trí, Hà Nội

75- Trần Thị Băng Thanh, PGS TS Ngữ văn, Hà Nội

76- Phan Tấn Hải, Nhà văn, California, Hoa Kỳ

77- Vũ Quang Việt, nguyên Vụ trưởng thuộc Cục Thống kê Liên Hiệp Quốc, Hoa Kỳ

78- Mai Thái Lĩnh, Nhà nghiên cứu văn hoá, Đà Lạt, Lâm Đồng

79- Ngô Thị Hồng Lâm, Hưu trí, Vũng Tàu

Thứ Năm, 30 tháng 12, 2021

Những thông tin TUYỆT MẬT MÀ WIKILESKS CHÔM ĐƯỢC TRÊN MẠNG VỀ QUAN HỆ BÍ MẬT GIỮA LÊ KHẢ PHIÊU, NÔNG ĐỨC MẠNH VỚI TRUNG QUỐC

 NHÂN "NHÀ XUẤT BẢN THẾ GIỚI" XUẤT BẢN CUỐN SÁCH VIẾT VỀ "NHỮNG ĐIỀU TÂM ĐẮC CỦA TBT LÊ KHẢ PHIÊU"; SÁCH IN SONG NGỮ VIỆT-TRUNG

Xin giới thiệu những thông tin TUYỆT MẬT MÀ WIKILESKS CHÔM ĐƯỢC TRÊN MẠNG VỀ QUAN HỆ BÍ MẬT GIỮA LÊ KHẢ PHIÊU, NÔNG ĐỨC MẠNH VỚI TRUNG QUỐC

LÊ KHẢ PHIÊU-NÔNG ĐỨC MẠNH VỚI TRUNG QUỐC

Tài liệu của Wikileaks




Theo ông Hoàng Minh Chính cho biết không ai biết được ai trong Bộ Chính trị đã ký tên vào văn bản bán nước này; BCT Việt Nam đã dấu chuyện này. Sau đây là các diễn biến của vụ bán nước này:

1/Lê Khả Phiêu bị gài mỹ nhân kế, lấy cô Trương Mỹ Vân lúc Lê Khả Phiêu sang thăm Trung Quốc năm 1988 và sinh được một bé gái. Lê Khả Phiêu không dám đem con về vị sợ tai tiếng; Khi Lê Khả Phiêu mất Trung Quốc đã cho con gái Lê Khả Phiêu sang viếng và đi cùng đoàn Đại sứ quán Trung Quốc.

Nhiều lần Trung Quốc gửi Công hàm đòi lấn vùng biển; vào tháng giêng 1999, đồng thời đòi đưa ra ánh sáng vụ này nếu Lê Khả Phiêu không hợp tác và cuối cùng Lê Khả Phiêu đã đồng ý ký văn bản hiến biển vào 30/12/1999…

2/ Ngày 31/12/1999, Phái đoàn Trung Quốc Team Jung Xua, trùm tình báo Trung Quốc sang Việt Nam, gặp kín Lê Khả Phiêu bàn thêm về vấn đề Việt Nam hiến đất…

3/ Tháng 25/2/2000 Lê Khả Phiêu đã phái Nguyễn Dy Niên sang thăm Trung Quốc; Nguyễn Dy Niên cho biết: Lê Khả Phiêu đồng ý việc hiến thêm đất. Trung Quốc nghe tin rất hoan hỷ, mở tiệc chiêu đãi Nguyễn Dy Niên với nhiều cung tần mỹ nữ ăn nhậu cùng bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Tiền Kỳ Tham.

4/Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Trung Quốc Tiền Kỳ Tham viết thư mật gửi Bộ trưởng Bộ Ngoại giao muốn gặp nhau tại Thái Lan, khi Ngoại trưởng Trung Quốc thăm nước này. 26/7/2000, Nguyễn Dy Niên đã bay từ phi trường Nội Bài 6 giờ 37 phút sáng sang Thái Lan gặp Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Trung Quốc tại Băng Cốc Thái Lan. Ngoại trưởng Trung Quốc Tiền Kỳ Tham đưa thêm hồ sơ đòi Việt Nam hiến thêm đất, biển. Trong hồ sơ ghi rõ: Trung Quốc đòi thêm 50 % vũng lãnh hải Vịnh Bắc Bộ, đòi Việt Nam cắt thêm 24.000 km2 vùng biển cho Trung Quốc.

Ngày 28/7/2000 Bộ Chính trị họp kín.

Thứ Tư, 29 tháng 12, 2021

Tư liệu: SỰ THẬT VỀ VIỆC TÊN LỬA SAM3 VỀ BIÊN GIỚI NĂM 1972, BỊ TRUNG QUỐC GIỮ LẠI và GS TRẦN ĐẠI NGHĨA "CẢI TIẾN" TÊN LỬA SAM2 ?

Ngan Kim   

                                     

 




Những ngày này cách đây 49 năm, Mỹ dùng “pháo đài bay” B-52 đánh vào Hà Nội nhằm gây áp lực ở hội nghị Paris, buộc ta phải nhượng bộ đàm phán về cuộc chiến ở Việt Nam. Cả thế giới nín thở hướng về Hà Nội. Kết thúc chiến dịch 12 ngày đêm, 81 máy bay Mỹ bị bắn hạ (trong đó có 34 “pháo đài bay” B-52), buộc phía Mỹ tuyên bố chấm dứt ném bom Bắc Việt Nam, tiến hành ký kết Hiệp định Paris, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam.

Có một sự kiện cho đến bây giờ nhiều người vẫn băn khoăn, đi tìm lời giải bởi chưa có một tài liệu chính thống và không chính thống nào đáng tin cậy về hai vấn đề sau cần được làm rõ:

1. Có đúng năm 1972 Liên Xô giúp ta tên lửa SAM3 chuyển qua biên giới Trung quốc bị giữ lại ở cửa khẩu Bằng Tường ?

2. Giáo sư Trần Đại Nghĩa là người “cải tiến” tên lửa SAM2 để bắn rơi “pháo đài bay” B-52 ?

Trên trang fb của anh Thành Hoàng Vĩnh có đăng bài của Đại tá Nguyễn Đình Hậu, nguyên trung đoàn trưởng e 277 và e 276, người nhận nhiệm vụ sang Baku, thủ đô nước Cộng hòa Azerbaizan để chuyển loại tên lửa SAM3 theo kế hoạch viện trợ quân sự khẩn cấp của Liên Xô

Anh Hoàng Vĩnh Thành là con trai cố Giáo sư Hoàng Minh Giám (người được Chủ tịch Hồ Chí Minh giới thiệu vào Chính phủ lâm thời đầu tiên của nước VNDCCH ngày 30-8-1945) nên có thể coi đây là một tư liệu lịch sử tin cậy.

Được sự đồng ý của anh Hoàng Vĩnh Thành, xin trân trọng giới thiệu bài viết !

----------------

Tháng 6 năm 1972, giữa lúc cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của Đế quốc Mỹ lên tới đỉnh cao, Trung đoàn 276 do đồng chí Phạm Sơn và Trung đoàn 277 do đồng chí Nguyễn Đình Hậu làm Trung đoàn trưởng được lệnh sang Baku, thủ đô nước Cộng hòa Azerbaizan để chuyển loại tên lửa SAM3 theo kế hoạch viện trợ quân sự khẩn cấp của Liên Xô.

Việc thành lập 2 trung đoàn ngày ấy được cấp trên ưu tiên tuyệt đối – cán bộ từ kỹ thuật viên các hệ đến cán bộ chỉ huy trung đội, đại đội, tiểu đoàn, trung đoàn đều là những người có kinh nghiệm chiến đấu được chọn lọc từ các đơn vị tên lửa SAM2, còn trắc thủ và pháo thủ cùng một số nhân viên kỹ thuật khác đều là những sinh viên có sức khỏe tốt, có khả năng tiếp thu tốt được tuyển chọn từ nhiều trường Đại học.

Thứ Năm, 23 tháng 12, 2021

RỒI MỘT NGÀY!

 


Rồi một ngày anh cũng sẽ già đi

Chim ngừng hót và bu zi hết lửa

Chợ chưa đến mà tiền đâu còn nữa

Rốc két một giờ bữa được bữa không...

 

Rồi một ngày môi em chẳng còn hồng

Bưởi tròn căng bỗng nhùng nhằng thành mướp

Đất khô cằn, nước về đâu có được

Tóc bạc dần theo lược rụng dưới chân.

 

Rồi một ngày con cái chẳng ở gần

Ngôi nhà vắng như lần mình mới cưới

Tôi và em kẻ nhà trên, nhà dưới

Vẫn âm thầm, rảnh tưới vài luống rau.

 

Rồi một ngày mình ngủ ít như nhau

Bệnh xương khớp lưng đau, đầu gối mỏi

Lúc trở trời lại tìm bác sĩ giỏi

Thuốc uống nhiều thôi, khỏi phải ăn cơm.

 

Rồi một ngày mình sao giống thằng bờm

Nói lảm nhảm, nghĩ dởm đời đến lạ

Đêm hai đứa chợt thấy thèm chung chạ

Mở ra rồi..Ông ạ..đậy lại đi.

 

Rồi bây giờ, tiền bạc chẳng là gì.

Mua sức khỏe, ước chi ngày ba bữa.

Thuốc uống ít, thể dục nhiều hơn nữa

Vui cháu con, sống khỏe giữa đời thường.

 

Mong bạn bè, thân hữu hội yêu thương

Đừng đắn đo vấn vương khi có thể

Cứ vui đi, vượt ngàn trùng dâu bể

Lúc hết rồi, đâu nữa để cho nhau…

Thứ Bảy, 6 tháng 11, 2021

KẺ THÙ CỦA LIÊN BANG XÔ VIẾT .


Mình hay kể chuyện tiếu lâm Liên xô, nhưng chuyện này là nghiêm túc 100%. Cơ mà tuỳ, các bạn đọc mà thấy buồn cười quá thì cho nó vào dạng tiếu lâm cũng được. Cũng như nhiều người đã cho các tác phẩm của Marx vào hạng mục Viễn tưởng, không có thật thôi.
Lược sử các Lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô
Sau khi Lenin qua đời (1924), người thứ hai trong đảng là đồng chí Trotsky. Nhưng hoá ra đồng chí Trosky lại là một kẻ phản bội. Kamenev, Zinoviev, Bukharin và Stalin lật đổ Trotsky và trục xuất khỏi Liên Xô vào năm 1927.
Nhưng sau vài năm, hóa ra Kamenev, Zinoviev và Bukharin cũng là kẻ thù và là loài sâu bọ. Sau đó đồng chí dũng cảm Heinrich Yagoda bắt họ (1936).
Chưa đầy 1 năm sau, Yagoda bị Yezhov bắt giữ vì làm điệp viên cho kẻ thù (1937). Nhưng sau một năm nữa, hóa ra Yezhov không phải là đồng chí, mà là một kẻ phản bội tầm thường và là tay sai của kẻ thù. Và Yezhov bị Beria bắt (1938).
Sau cái chết của Stalin, mọi người đều nhận ra rằng Beria cũng là một kẻ phản bội. Sau đó Zhukov bắt Beria (1953).
Nhưng ngay sau đó Khrushchev biết được Zhukov là kẻ có âm mưu. Và ông đã đày Zhukov đến Ural, tước mọi quyền hành cho đến chết.
Và một thời gian sau, người ta tiết lộ rằng Stalin là kẻ thù, kẻ phá hoại và kẻ phản bội (1956). Và cùng với ông ta là hầu hết Bộ Chính trị đương thời. Sau đó, Stalin được đưa ra khỏi lăng, Bộ Chính trị và Shepilov, những người cùng hội cùng thuyền với họ, đã bị giải tán bởi các đảng viên trung thực do Khrushchev lãnh đạo (1957).
Nhiều năm trôi qua và các lãnh đạo trẻ hơn phát hiện: hóa ra Khrushchev là một người bốc đồng, bất hảo, phiêu lưu và cũng là kẻ thù của đảng và nhân dân Xô Viết. Sau đó Brezhnev tống Khrushchev về hưu và sống ẩn dật (1964).
Sau cái chết của Brezhnev, mới thấy hóa ra ông là kẻ gây hại và là nguyên nhân của sự trì trệ (1964-82).
Sau đó, có một hai người nữa mà không ai đủ rảnh để nhớ ra, hình như đang làm lãnh đạo thì chết nên không ai nỡ quy tội phản bội (82-85). Rồi một Gorbachev trẻ trung, năng động lên nắm quyền. Và hóa ra toàn bộ đảng là đảng của những kẻ tàn phá và kẻ thù. Gorbachev bắt tay vào sửa chữa mọi thứ ngay lập tức. Cái mà người ta gọi là Cải tổ, Đổi mới, Perestroyka… đó
Thế rồi, cải không kịp, Liên Xô sụp đổ (1991). Và Gorbachev thành ra kẻ tội đồ, là kẻ thù và kẻ phản bội lại tất cả những kẻ phản bội trước đó. ... Rồi Elxin lãnh đạo nước Nga khi về hưu cũng bị quy là kẻ phản bội này nọ. Giờ đến lượt Putin thì chưa thôi chức, nhưng cũng đã thấy trước rất rõ là ai rồi.
Stanislav Sadalsky

Thứ Tư, 1 tháng 9, 2021

THÔNG BÁO !

 


TỪ HÔM NAY TÔI CHÍNH THỨC KHÉP LẠI BLOG NÀY, KHÔNG ĐƯA BÀI  VIẾT NÀO LÊN BLOG NÀY NỮA. 
MONG BAN ĐỌC XA GẦN LƯỢNG THỨ !

( Trừ một số tin quan trọng và  khi nhà trường có tổ chức Hội trường đẻ kỷ niệm ngày thành lập thì tôi sẽ đưa bài và  hình ảnh lên Blog này )