CÓ MỘT ĐÁM TANG… RẤT BUỒN
Trần Thắng
|
Tôi có may mắn dự đám tang lịch sử này. Lần đầu tiên tôi
nhìn thấy quyền uy cộng sản hiện ra chát chúa, ở một nơi vốn ra phải nhường
bước cho sự trầm mặc của cuộc sống tâm linh. Tôi đi cùng với anh Phan Đình Diệu.
Chúng tôi rất ngạc nhiên khi vòng hoa tang của hai chúng tôi đang định vượt
qua cổng vòm ngoài đường Trần Thánh Tông để vào sân nhà tang lễ bỗng bị ngăn
lại bất thình lình, và bị giật dải băng đen có mấy chữ Vô cùng thương tiếc
tướng quân Trần Độ để thay bằng mấy chữ Kính viếng ông trần Độ.
Đang đứng ngơ ngẩn vì chưa hiểu được vì sao lại có một sự trắng trợn vượt quá
tưởng tượng của mình như thế thì một vòng hoa sang trọng hơn lù lù tiến vào
và cũng bị giật giải băng để cắt cụt đi đúng mấy chữ như của chúng tôi. Đó là
vòng hoa của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Biết ngay tình thế nghiêm trọng rồi,
hai chúng tôi đành chịu bất lực theo dòng người mà đi.
Khi lễ viếng đến chỗ đọc điếu văn, nghe ông Vũ Mão xướng
lên những câu phê phán chói tai, cả phòng tang gần 2000 con người bỗng im
phăng phắc, người nào cũng cảm thấy nghẹt thở, tưởng như có một cái gì sắp nổ
bùng. Thế rồi con trai vị tướng, cũng là một sĩ quan, bước lên đáp lễ, rút tờ
giấy ra đọc những lời viết sẵn, giọng đọc đều đều vô cảm, làm ai nấy càng
thêm dồn nén. Gần cuối, đột nhiên thấy anh ngẩng đầu nói một câu dõng dạc:
“Thay mặt gia đình, chúng tôi không chấp nhận lời điếu tang của Quốc hội vừa
rồi”. Ôi chao! Trái bom đã nổ! Hàng tràng pháo tay vang lên ngay lập tức, lần
đầu tiên thấy ở một đám tang. Tôi nhìn sang bên, rất nhiều khuôn mặt ràn rụa
nước mắt, trong khi tay vẫn vỗ không ngừng. Từ một phía ở góc phải phòng, một
tiếng nói rất to phát ra, nghe rất dõng dạc, của một người đã trèo lên chiếc
ghế: “Như thế này thì còn nhân nghĩa nào nữa, nhân nghĩa ngàn đời của đất nước
Việt Nam còn đâu”. Người nói nhắc lại hai lần cùng một câu. Cả phòng tang lễ
như chùng xuống rồi vỡ òa, tiếng xôn xao khắp từ đầu đến cuối. Rồi một người
khác, cũng trèo lên ghế, mặc áo quân nhân, huân chương đeo đỏ ngực từ trên xuống
dưới: “Tôi là người theo trận mạc với Anh Trần Độ trong bao nhiêu năm, sáng
nay chính mình tự tay khâm liệm cho Anh. Thế mà dám có những lời xỉ vả Anh
như thế à? Vũ Mão đâu rồi? Khi chúng tôi ở trong quân ngũ thì hắn còn trẻ
ranh, đi học ở Nam Ninh…”. Tôi thoạt liếc lên phía góc trái quan tài, chỗ
dành cho Ban tổ chức, kịp nhìn thấy một cái bóng com lê rảo chân nhanh ra lối
cửa ngách. Cả đám tang bấy giờ trở nên nhộn nhạo vì đã đến giờ đi quanh linh
cữu. Dòng người nối đuôi nhau không dứt, sau đó lần lượt kéo ra khỏi phòng.
Tôi vẫn theo dõi người mặc áo quân nhân vừa lên tiếng lúc nãy. Ông ta đi dần
ra cửa mặt nở một nụ cười đôn hậu, giọng vẫn oang oang: “Nói thế nhưng đụng
vào nó làm gì, cái đồ trẻ ranh ấy…”. Và ông tiếp tục cười khà khà. Tôi cũng
đi sau ông. Chợt nhìn thấy trước mình dáng đi thủng thẳng của ông Hoàng Minh
Chính. Ông đang lặng lẽ bước một trước tôi. Chúng tôi nhường cho linh cữu đi
trước và vô tình theo nhau ra đến ngoài sân, tạt dần về phía những hàng ghế
dưới bóng cây. Tự nhiên tôi nhìn rõ ra cái người đã trèo lên ghế lên tiếng đầu
tiên đang đứng ở đấy. Ông ta và ông Hoàng Minh Chính thoạt nhìn nhau, có vẻ
như ngờ ngợ. Rồi chỉ một phút thì họ cùng kêu lên: “Có phải Chính không?”
“Đúng mình Chính đây”. “Tôi là Hà đây mà. Hoàng Hữu Hà, Thường vụ Thành ủy
lúc đón anh đi đánh sân bay Gia Lâm trở về”. Thế là họ ôm lấy nhau…
Lúc ra đến tận cửa sát ngoài đường tôi mới gặp lại Phan
Đình Diệu. Cả hai cùng lên một chiếc taxi vì về chung một hướng. Trên xe, Diệu
mỉm cười, thủng thẳng nói với tôi: “Quyền uy lần đầu va phải một cú, cũng ra
dáng đấy. Một cú ở ngay chính nơi làm nên cái oai phong cho nó”.
Nguyễn Huệ Chi
|
Hà Nội sắp vào thu, một mùa “vu lan báo hiếu” sắp đến. Tôi lại
nhớ tới những ngày này của 15 năm trước.
Sau Tết Nhâm Ngọ (2002), Cha tôi – Trần Độ trở bệnh nặng.
Cha tôi lại vào bệnh viện Hữu Nghị với chẩn đoán ung thư bàng quang. Nằm ít lâu,
sức khoẻ ông xuống rõ do suy hô hấp, tháng 5/2002 ông phải đưa ống xông vào để
thở và nằm ở phòng cấp cứu. Mặc dù nằm một chỗ, không nói được, đi tiểu qua ống
dẫn nhưng ông vẫn tỉnh táo. Ông rất vui khi có người thân, bạn bè tới thăm. Không
nói được nhưng ông ra hiệu hoặc bút đàm với mọi người. Giữa tháng 7/2002, ông
ra hiệu cho tôi về lấy di chúc của ông ra đọc và thực hiện các việc ông dặn.
Trong di chúc ông viết: xin được hoả thiêu và hài cốt đưa về nằm bên mẹ ở nghĩa
trang làng Thư Điền, xã Tây Giang, huyện Tiền Hải.
Vào 14g 10p ngày 9/8/2002 (tức 1 tháng 7 năm Nhâm Ngọ) Cha tôi
trút hơi thở cuối cùng tại phòng cấp cứu, bệnh viện Hữu Nghị, Hà Nội.
Ngày hôm sau, Văn phòng Quốc hội họp với gia đình bàn về lễ
tang cho ông. Các vấn đề lễ tang, hoả táng, đưa hài cốt về quê… được thống nhất.
Lời điếu của Ban tổ chức lễ tang, và lời cảm ơn của gia đình sẽ được soạn trước
và đưa hai bên thống nhất. Gia đình đề nghị có 4, 5 quyển sổ tang để mọi người
chia buồn, Văn phòng Quốc hội đồng ý. Đám tang được lùi lại 5 ngày vì… Quốc hội
đang họp.
Ngày 11/8, anh Hùng phó Ban lễ tang mang tới nhà cho tôi xem
lời điếu. Trong đó có một đoạn khoảng chục dòng tôi yêu cầu bỏ vì nó “không thích
hợp” và trái đạo lý “nghĩa tử nghĩa tận” của ông bà ta. Tối đó anh Hùng đưa tôi
bản sửa, chỉ còn lại hơn một dòng “không thích hợp” và tôi cương quyết đòi bỏ.
Anh Hùng nói: Bộ Chính Trị, Ban Bí Thư cho ý kiến là không bỏ, nhưng tại lễ
tang sẽ đọc rất nhỏ hoặc tạm tắt tăng âm… Tôi nói: Tuỳ các ông, nhưng nếu xảy
ra chuyện gì gia đình không chịu trách nhiệm. Còn lời cám ơn của gia đình tôi đã
soạn và đánh máy. Anh Hùng xem và không có ý kiến gì.
Sáng 14/8/2002, gia đình, họ hàng, thân bằng quyến thuộc của
Cha tôi đã có mặt rất sớm ở nhà tang lễ số 5 Trần Thánh Tông.
