Thứ Hai, 16 tháng 9, 2019

DÂN CHỦ - DI SẢN VĂN HÓA QUÝ GIÁ CỦA NGUYỄN MẠNH TƯỜNG

 


Nguyễn Khắc Mai

16-9-2019

Năm nay, chúng ta kỷ niệm 110 năm ngày sinh của GS Nguyễn Mạnh Tường, đúng vào thời điểm mà giá trị văn hóa ấy lại là thứ mà xã hội ta, Đất Nước ta, rất cần cho một vận hội mới, một công cuộc “Đổi mới tử tế” hơn, một chấn hưng đúng nghĩa.

Trước hết, cần làm rõ dấu ấn của nhân cách Nguyễn Mạnh Tường, trong những tư tưởng của mình. Điều ấy giúp chúng ta, mỗi khi đọc một dòng tư tưởng của ông, chúng ta sẽ mường tượng ra dấu vết nhân cách một con người cụ thể và sẽ không lẫn được với tư tưởng của một con người khác. Vậy, ông là ai? Tôi mượn lại đúng cái câu hỏi, ông đã đặt ra với An Dương Vương, trong bài viết của mình.

Ông là một mẫu hình tiêu biểu của một lớp người sinh ra, lớn lên trong cuộc giao thoa văn hóa Việt – Đông phương và Pháp – Tây phương ở nửa đầu thế kỷ XX. Ông là sản phẩm của một thời đại, một đi không trở lại của Việt Nam hiện đại. Nhưng trong cái mô hình chung ấy, ông là ai, ông có nét chủ đạo nào riêng tư làm nên nhân cách của mình?

Vào thời buổi ấy, Quân tử đang vẫn là cái phẩm chất, cái tinh thần còn được đề cao, trọng thị, trong những gia đình tinh hoa, gia giáo ở nước ta. Tôi quan sát thấy bàng bạc trong ông cho đến cuối đời cái nét quân tử ấy. Tôi rất ấn tượng khi báo Le Monde Pháp hỏi ông một câu rất cắc ké, “Ngài nghĩ như thế nào về hai người cộng sản là Ceausescu của Romania và Hồ chí Minh của Việt Nam. Thông thường, người ta có ta có thể nhân dịp như thế, trả thù cái người miệng thì nói là bạn, nhưng đã hãm hại mình không thương tiếc.

Cả sứ quán Việt Nam ở Paris lúc đó đứng tim chờ nghe ông Hồ bị chửi mắng. Nhưng không. Cụ Tường chỉ trả lời: Tục ngữ Việt có câu: “Vật năm bảy loài, người năm bảy đấng”, không thể so sánh Ceausescu và Hồ chí Minh được. Về phẩm hạnh quân tử thì Cụ có rất nhiều thí dụ trong đời thường, cả trong đời sống chính trị và nghề nghiệp. Chúng ta cần học hỏi, nghiên cứu. Thật ra khi nghiên cứu hai tư tưởng Dân chủ và Giáo dục của Cụ mà bỏ qua cái phẩm chất này sẽ không hiểu gì về tư tưởng quan trọng ấy của Cụ.

Có một nét thứ hai trong nhân cách của Cụ, đó là phẩm chất “triết gia”. Triết gia theo Cụ là một mẫu hình nhân cách xuất hiện theo sự đòi hỏi của giai cấp Tư sản châu Âu đang định hình và bước vào “Thời đại mới”. Những ông khổng lồ mới trong triết học, khoa học, văn chương, nghệ thuật xuất hiện. Chính họ đã chiếu rọi những luồng sáng rực rỡ làm nên “Thế Kỷ Ánh Sáng” – Thế kỷ XVIII.

Nói về nhu cầu của sự xuất hiện con người triết gia và phẩm chất triết gia, Nguyễn Mạnh Tường nêu rõ: “Giai cấp tư sản Pháp, trái lại đang đấu tranh, cần có quần chúng ủng hộ. Do đó, thành hình dần dần một hình tượng con người chiến sĩ tư sản, đấu tranh chống phong kiến: Triết gia”. Trong thế kỷ này có rất nhiều định nghĩa, nhận định về triết gia. Encyclopedie khẳng định: “Còn triết gia của ta, thì biết phân chia thời gian giữa cuộc đời ẩn dật và cuộc giao du với người. Triết gia đầy lòng nhân đạo, thiết tha danh dự và tính trung thực… Vì vô cùng yêu mến xã hội, triết gia cần làm mọi điều đúng như mọi người đợi chờ… luôn luôn tràn đầy ý nghĩ về lợi chung của xã hội…”

Thứ Bảy, 14 tháng 9, 2019

Phan Trí Đỉnh : ĐƠN TỐ CÁO (lần 2) của con gái Nông Đức Mạnh


Chuyện là thế này, tôi đã kể mấy lần rồi nhưng nhiều bạn vẫn chưa biết, cứ hỏi lại nên tôi đưa lần nữa. Bạn nào biết rồi thì thôi.
Khi ấy anh Trần Nhung là TBT Báo Cựu chiến binh, gọi tôi lên tòa soạn nói cùng tiếp khách với anh, anh nói: "Chỉ có chú mới dám nuốt vụ này."
Khách là cô Nông thị Bích Liên - con gái của Tổng bí thư Nông Đức Mạnh, cô Liên đưa cho ra một tập đơn, tìm đơn gửi cho báo Cựu Chiến binh giao cho tôi, liếc nhìn tôi thấy còn gửi mấy báo nữa.
Tôi nhận đơn và hướng dẫn cô nên đến tòa án để nộp dơn khởi kiện, tòa soạn báo không có chức năng xử kiện, mong cô thông cảm.
Sau đây là đơn tố cáo của cô Nông Thị Bích Liên, con gái ruột ông Nông Đức Mạnh, nguyên Tổng Bí Thư đảng Cộng sản Việt Nam. Bức đơn có nội dung tố cáo những việc làm vi phạm pháp luật của Đại biểu Quốc Hội Đỗ Thị Huyền Tâm.
Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
Độc Lập - Tự Do - Hạnh Phúc
----------------------
                                                        Hà Nội ngày 18 tháng 4 năm 2012
ĐƠN TỐ CÁO (lần 2)
Đảng viên, đại biểu Quốc hội Đỗ Thị Huyền Tâm vi phạm đạo đức Đảng viên, vi phạm pháp luật nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
Kính gửi: Báo Cựu Chiến Binh Việt Nam.
Tôi tên là Nông Thị Bích Liên con gái ruột của ông Nông Đức Mạnh – nguyên Tổng Bí thư Ban chấp hành TW Đảng Cộng sản Việt Nam. Địa chỉ số 70 Kim Mã Thượng phường Cống Vị, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội.
Ngày 09/02/2012, tôi đã viết đơn lần 1 tố cáo với tổ chức và Ông/Bà có trách nhiệm về những vi phạm của cá nhân bà Đỗ Thị Huyền Tâm – đại biểu quốc hội, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Tập doàn Minh Tâm về những dấu hiệu vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức đảng viên.
Đã hơn hai tháng, cá nhân tôi chưa nhận được trả lời của cơ quan/tổ chức nào về những tố cáo, phản ảnh của tôi. Nay, tôi tiếp tục viết đơn tố cáo lần 2 phản ánh với tổ chức Đảng và ông/bà có trách nhiệm về những vi phạm của bà Đỗ Thị Huyền Tâm – đại biểu Quốc hội, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Tập đoàn Minh Tâm. Cụ thể như sau:
1. Bà Tâm là Đảng viên, là Đại biểu Quốc hội nhưng đã cấu kết với chồng là ông Phạm Tuấn Linh lừa dối gia đình tôi, lợi dụng tình cảm của bố tôi để vụ lợi:
- Lợi dụng uy tín của bố tôi để tìm mọi cách đáo hạn các khoản nợ, giãn nợ khoảng 900 tỷ đồng của Công ty Minh Tâm mà bà Tâm là Chủ tịch HĐQT.
- Âm mưu chiếm đoạt và phá vỡ mọi thành quả, nền tảng đạo đức cá nhân và gia đình tôi và xã hội, phá vỡ hình ảnh của Đảng Cộng sản Việt Nam sau 82 năm xây dựng, gìn giữ và phát triển.
Cuối năm 2010, ngay khi Mẹ tôi lâm bệnh nặng, bà Tâm tìm cách tiếp cận bố tôi, dùng các thủ đoạn lấy lòng những người xung quanh Bố tôi và đặc biệt là lái xe riêng của Bố tôi là ông Vũ Văn Sáng (công tác tại Phòng xe, Văn phòng TW Đảng), thông qua lái xe để nắm các thông tin về gia đình tôi. Từ đó, bà Tâm tạo được vỏ bọc cảm thông chia sẻ với Bố tôi, giả tạo tình cảm để lừa gạt và lợi dụng uy tín của Bố tôi .

Thứ Sáu, 13 tháng 9, 2019

Nhập-Trung hay thoát-Trung? ( phần 3 )


Mai Thái Lĩnh
Phần III – Con đường “thoát-Trung” của Phan Châu Trinh
Theo lời kể của Phan Văn Trường, mãi đến năm 1912 ông mới quen biết Phan Châu Trinh.[1] Sự cộng tác giữa hai nhà yêu nước này trên đất Pháp đã đạt tới đỉnh cao vào năm 1919, khi họ cùng nhau soạn thảo bản “Yêu cầu của nhân dân An-nam” (Revendications du peuple annamite) để gửi đến Hội nghị Hòa bình Versailles, nhân dịp Tổng thống Hoa Kỳ Woodrow Wilson đề ra 14 điểm nổi tiếng – trong đó có nguyên tắc “dân tộc tự quyết” (self-determination). Nhưng tại sao chỉ một năm sau đó, quan hệ tốt đẹp giữa họ đã trở nên xấu đi đến mức không còn cộng tác với nhau như trước?
Sau khi Phan Văn Trường qua đời (năm 1933), trong một bài báo đăng trên tờ Trung Lập, Nguyễn An Ninh đã viết:
“Hai chữ giác ngộ để khuyến khích thiên hạ ngày nay, trước kia nó không lạ tai gì với Phan Văn Trường. Sự chia rẽ trong Đảng Xã hội Pháp, lúc toàn quốc hội nghị ở Tours năm 1920, có ảnh hưởng một cách sâu xa trong đầu óc của Phan Văn Trường. (…) Mà các bạn Tây- Nam của ông ta cũng đều yêu kính cái tính của ông ta. Phan Châu Trinh lắm khi bị ông ta phê bình dữ dội, cũng là vì cái tính ngay thẳng của ông ta không hạp với cái tính đầu cơ của Phan Châu Trinh. Phan Văn Trường nghiên cứu chủ nghĩa “Mã Khắc Tư”, nhờ nó mà hiểu rõ sự tiến hóa của xã hội. Còn Phan Châu Trinh trọn mười mấy năm ở Pháp cứ ôm bộ “Ẩm Băng Lương Khải Siêu” cho đến ngày về nước cũng còn đem theo tàu để lót đầu nằm, thì làm sao hai người không chọi nhau được. Song hai anh em cũng cứ giữ thái độ bạn già mà đối với nhau.
Tôi nhắc đến câu chuyện này là cốt ý chỉ rằng Phan Văn Trường là người giác ngộ hơn Phan Châu Trinh. Mà Phan Châu Trinh lại được quý trọng như kia. Còn sự chết của Phan Văn Trường ngày nay, chắc ít người chú ý đến.” [2]
Điều này cho thấy mâu thuẫn gay gắt làm rạn nứt mối quan hệ thân thiết giữa Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường không phải do cá tính của mỗi người như một số người đã suy đoán mà chủ yếu do lập trường, quan điểm chính trị. Có thể nói Phan Văn Trường chẳng những “giác ngộ” (tiêm nhiễm chủ nghĩa Mã Khắc Tư – tức chủ nghĩa Marx) mà còn bị ảnh hưởng bởi Lenin - do thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng 10 Nga.
Tiết lộ quan trọng nhất của Nguyễn An Ninh trong đoạn văn nói trên chính là câu : “Sự chia rẽ trong Đảng Xã hội Pháp, lúc toàn quốc hội nghị ở Tours năm 1920, có ảnh hưởng một cách sâu xa trong đầu óc của Phan Văn Trường”. Chúng ta có thể hiểu: việc một bộ phận quan trọng trong Đảng Xã hội Pháp (trong đó có Marcel Cachin, giám đốc tờ nhật báo L’Humanité) tách ra để thành lập Đảng Cộng sản Pháp đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhận thức và lập trường chính trị của Phan Văn Trường. Vào thời đó nhiều người trong cánh tả vẫn chưa nhìn thấy rõ những tác hại của chủ nghĩa Marx-Lenin và mô hình chuyên chính vô sản, vẫn còn đặt lòng tin vào việc Quốc tế cộng sản (Quốc tế III) sẽ giúp đỡ cho các nước thuộc địa giành lại độc lập thật sự. Vì vậy, dưới con mắt của Phan Văn Trường và Nguyễn An Ninh, việc Phan Châu Trinh chủ trương đoàn kết dân tộc, hợp tác tả-hữu để thiết lập chế độ tự trị (dominion) bị đánh giá là có “tính đầu cơ”.
Con đường thoát-Trung theo nhận thức của Phan Châu Trinh:
Đối với Phan Châu Trinh, thoát-Trung là yêu cầu sinh tử nếu dân tộc Việt Nam muốn tồn tại với tư cách là một quốc gia độc lập thật sự (chứ không phải chỉ là độc lập “hình thức”), và hơn thế nữa, có thể phát triển trên con đường văn minh, tiến bộ của nhân loại.
Theo ông, muốn thoát-Trung phải giải quyết hai vấn đề trọng tâm:
1) Về tư tưởng – văn hóa:

KHÔNG THỂ BẮT CẢ DÂN TỘC NÀY LÀM CON TIN!


Tiến sĩ Đinh Hoàng Thắng trả lời PV Văn hóa Nghệ An
Chu Thị Xuyến thực hiện
Thứ năm, 12 - 9 - 2019

Ngày 08/9/2019, một loạt “Tweeter” từ mạng “Tin tức về Biển Đông” và các nguồn tin khác đều xác nhận, tàu Hải Dương Địa Chất 8 (HD-8) của Trung Quốc đã rời Đá Chữ Thập với tốc độ tối đa, cùng với một số tàu hộ tống, đang trên đường quay trở lại khu vực Bãi Tư Chính. Lần này phải chăng Trung Quốc nhất quyết xâm chiếm khu vực quanh Bãi Tư Chính? Chiếc tàu hải cảnh khổng lồ 3901 của Trung Quốc, chủ lực trong đoàn hộ tống đã bật lại tín hiệu liên lạc, cho thấy vị trí của nó gần chiếc HD-8. Căn cứ vào luật quốc tế, rõ ràng Trung Quốc đang ngang nhiên xâm lấn vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa (CS) của Việt Nam… Đây là lần thứ ba từ đầu hè này, đội tàu Trung Quốc quay lại khu vực này sau hai lần tạm lui về Đá Chữ Thập để tiếp nhiên liệu. Trong bối cảnh ấy, Tạp chí Văn hóa Nghệ An có cuộc trao đổi với TS. Đinh Hoàng Thắng, Phó Viện trưởng Viện các Vấn đề Phát triển (VIDS), Thư ký “Chương trình Minh triết làm chủ Biển Đông” về ý đồ của Trung Quốc trong việc kéo dài khủng hoảng quanh Tư Chính, khả năng bảo vệ chủ quyền của ta và một số kiến nghị liên quan đến cuộc đấu tranh ngoại giao và pháp lý hiện nay. Dưới đây là nội dung trao đổi.
Chu Thị Xuyến: Đây không phải là lần đầu tiên Trung Quốc đưa tàu các loại vào Bãi Tư Chính của Việt Nam. Các năm 2014, 2017 và 2018 đều có chuyện với Trung Quốc ở khu vực này. Trước hết, Tiến sỹ đánh giá thế nào về ý đồ, mục tiêu của các lần xâm nhập?
TS. Đinh Hoàng Thắng: Ý đồ cũng như mục tiêu các lần xâm nhập của Trung Quốc vào vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa (CS) của Việt Nam nằm trong tiến trình thực hiện chính sách “tằm ăn dâu” nhằm độc chiếm Biển Đông và thực hiện chiến lược biến Trung Quốc thành cường quốc đại dương. Chủ trương nhất quán ấy phục vụ cho mục đích của ban lãnh đạo Bắc Kinh là triển khai bằng được “Sáng kiến Vành đai con đường” (BRI) khét tiếng từ bao năm nay, mà Việt Nam là một đầu cầu quan trọng trong đó. Về các biện pháp thì thiên hình vạn trạng. Từ “ngoại giao pháo hạm”, đến “vừa ăn cướp vừa la làng”, từ dùng sức mạnh “cứng” đe dọa đến đẩy mạnh “tam chủng chiến pháp”… Đấy là chính sách nước lớn ức hiếp nước nhỏ, một chính sách bá quyền trong thời đại mới và cũng là một nét truyền thống trong chính sách bành trướng của Bắc Kinh đối với nhiều nước ở khu vực, trong đó có Việt Nam.
Những mục tiêu “nóng” hơn
Chu Thị Xuyến: Thế còn năm 2019 này?
TS. Đinh Hoàng Thắng: Tuy nhiên, năm nay, cuộc xâm nhập diễn ra từ đầu mùa hè đến nay (có thể lấy cái mốc từ tháng 6/2019), với nhiều chiều kích mới, gắn với các mốc thời sự. Do đó, các vi phạm lần này có những mục tiêu “nóng” hơn so với các xâm nhập trước đây. Thứ nhất, Trung Quốc xâm nhập khu vực EEZ và CS của ta trong thời điểm Việt Nam đang chuẩn bị cả về đường lối lẫn nhân sự cho Đại hội Đảng sắp tới. Rõ ràng Bắc Kinh đang muốn gây sức ép lên ban lãnh đạo Hà Nội trên cả hai phương diện ấy. Thứ hai, Trung Quốc ức hiếp Việt Nam vào lúc Hà Nội sắp sửa đảm nhận cương vị Chủ tịch ASEAN. Thông điệp Trung Quốc chuyển tới ASEAN, thông qua việc chủ động gây ra khủng hoảng trong khu vực Bãi Tư Chính là để ép Việt Nam và ASEAN chấp nhận các điều kiện do Trung Quốc áp đặt (mà Việt Nam và một số thành viên khác trong ASEAN đang bác bỏ) lên dự thảo Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC). Thứ ba, kéo dài khủng hoảng Bãi Tư Chính, Trung Quốc bắn tin tới Mỹ và châu Âu rằng, Trung Quốc không ngán cái gọi là “Tự do đi lại trên biển” (FONOP) của Mỹ và phương Tây. Đặc biệt năm nay, Mỹ - Trung lại đang bước vào một cuộc thư hùng có thể nói là lớn nhất trong lịch sử quan hệ quốc tế hậu chiến tranh Lạnh. Thứ tư, ngoài vấn đề thương chiến, năm nay Bắc Kinh đang đau đầu về Đài Loan, Hong Kong và nhiều vấn đề nội trị khác, nên lãnh đạo chủ trương gây hấn bên ngoài để “chùng bớt” căng thẳng nội bộ. Cuối cùng, nếu Việt Nam không quyết liệt, Trung Quốc rất có thể liều lĩnh chiếm đoạt một số điểm trong khu vực gần Bãi Tư Chính như Trung Quốc đã từng cưỡng đoạt bãi cạn Scarborough hồi năm 2012.

Thứ Năm, 12 tháng 9, 2019

ĐẤT CỦA TỔ TIÊN KHÔNG PHẢI LÀ VỎ HẾN!


FB Nguyen Ngoc Chu



1. Gần đây quan sát thấy xu hướng rời Mai Dịch và không vào Mai Dịch. Trong nhiều nguyên nhân, có 2 điểm chốt: Không muốn nằm ở Mai Dịch vì không chung chí hướng; Và sợ hãi nằm ở Mai Dịch.
Không bàn sâu vào nguyên nhân, mà chỉ nói đến hệ quả. Hệ quả là nhân dân mất quá nhiều đất và phải chi quá nhiều tiền của.
2. Nhớ đến 3 đám tang của ông Trần Đại Quang đưa về Ninh Bình, ông Đỗ Mười đưa về Thường Tín, ông Lê Đức Anh đưa về TP HCM mà sợ hãi. Tang lễ ở Hà Nội đã tốn kém, đưa về nơi chôn cất lại càng tốn kém hơn. Tốn kém về tiền bạc, tốn kém về phương tiện, tốn kém về nhân lực, tốn kém về thời gian. Tính tổng lại về tiền bạc, mỗi đám tang tốn hết bao nhiêu tỷ đồng?
Nhưng cái tốn kém chưa nêu mới là kinh sợ. Đó là tốn kém về đất đai. Từ vài ngàn m2 đến dăm chục ngàn m2, mỗi ngôi mộ chiếm một lượng đất nuôi sống từ vài hộ cho đến vài chục hộ dân đời đời kiếp kiếp.
3. Trong di chúc của Cụ Hồ cách đây 50 năm đã nói về điện táng. Những mong sau khi chết chỉ là một bình tro để không tốn đất của tổ tiên. Cụ Hồ giỏi tiên đoán như vậy cũng không thể nào biết được những “ hậu duệ cầm quyền” lại không làm theo lời Cụ.
Không thể quốc tang như thế này được. Không thể chiếm đất xây mộ như thế này được. Phải có một chính sách khác ngay tức thì. Bởi vì còn cả hàng trăm vị có chức quyền đã và đang chuẩn bị chỗ ở sau cõi tạm bằng ngôi nhà nhiều ngàn m2 đất. Trào lưu học xây lăng mộ vua chúa của kẻ có chức quyền là tội lỗi lớn với tổ tiên và con cháu.
Ai cho phép họ chiếm cả chục ngàn m2 đất để xây mộ? Cũng là do tên tội phạm “ Sở hữu toàn dân”.
4. Sở Bình Vương ngày xưa được chôn sâu dưới đầm lầy không cho ai biết. Vậy mà Ngũ Tử Tư còn đào lên quật 300 roi và đái vào sọ. Sự báo thù là không có thời gian. Những người rời quyền lực còn sống, hay đương quyền, hãy tự biết mà quyết.
5. Đất của tổ tiên không phải là vỏ hến. Những người nhìn xa thì tự biết, rằng trăm năm sau hậu thế sẽ xóa tất để lấy đất mưu sinh.


Nhập-Trung hay Thoát-Trung? ( Phần 2 )


Mai Thái Lĩnh
Phần II - Quan niệm của Phan Châu Trinh về nền văn minh Trung Hoa và chế độ dân chủ phương Tây
Quan niệm của Phan Châu Trinh về văn minh Trung Hoa và chế độ dân chủ phương Tây có thể tìm thấy rải rác trong nhiều bài thơ, bài viết của ông, nhưng tiêu biểu nhất là trong một di cảo có tên là Liên hiệp Pháp-Việt hậu chi Tân Việt Nam, tạm gọi là Tân Việt Nam. Theo cố giáo sư sử học Vĩnh Sính, đây là một “vị định cảo” (tức là một bản thảo chưa hoàn thành).[1] Bản thảo này đã được dịch và phân tích khá nhiều trong thời gian gần đây, nhưng hầu hết các nhà nghiên cứu chỉ mới chú ý đến việc so sánh về đường lối và phương pháp đấu tranh giữa Phan Châu Trinh và Phan Bội Châu, chứ chưa sử dụng để đối chiếu, so sánh giữa những người trong cánh tả.
Ngoài bản thảo nói trên, đáng chú ý nhất là hai bài diễn thuyết của ông tại Sài-gòn vào cuối năm 1925, một về chủ đề “Đạo đức và luân lý Đông Tây” (La morale traditionnelle et la morale occidentale), một về chủ đề “Quân trị chủ nghĩa và dân trị chủ nghĩa” (La monarchie et la république). Trong bài viết này, tôi dựa vào Tuyển tập Phan Chu Trinh do Tiến sĩ Nguyễn Văn Dương biên soạn, ấn bản năm 2006 do Nxb Văn hóa Thông tin tái bản.[2]
Về nguồn gốc của dân tộc Việt Nam
Phan Châu Trinh không tin vào giả thuyết “người Việt Nam có nguồn gốc từ Trung Hoa”. Ông cho rằng dân tộc Việt Nam có nguồn gốc riêng. Trong bản thảo Tân Việt Nam, ông viết: “Dân tộc ta, vài ngàn năm trước, tự sinh tự nảy nở ở lưu vực hai bên Tản viên Nhĩ hà, như người trong nguồn đào, không biết có đời Hạ đời Thương (…) (NVD, Tuyển tập, tr. 560)
Về mặt này, có lẽ ông chịu ảnh hưởng của bộ Cương mục (Việt sử Thông giám Cương mục) được biên soạn dưới thời Nhà Nguyễn. Trong Lời nói đầu (Phàm lệ) của bộ sử này, có đoạn: “Sử cũ chép quốc thống bắt đầu từ Kinh Dương Vương, nhưng xét thời đại ấy việc rất lờ mờ, không có chứng cứ đích xác. Nay vâng sắc dụ chuẩn y cho chép từ đời Hùng Vương, để tỏ rõ lúc bắt đầu có quốc thống của nước ta, còn những việc về niên kỷ Kinh Dương và Lạc Long thì chua phụ ở dưới mà chép sơ lược, để hợp với cái nghĩa “nghi dĩ truyền nghi”. [3]
Trong phần ghi chú trên bản thảo, ông nói rõ hơn: “Xét người nước ta, tuy cùng là giống Da vàng, nhưng tự sinh tự phát triển riêng ở phía Nam Á đông, giao thiệp gần gũi với Trung Quốc, thật từ đời Tần, Hán. Từ đó hai giống giao dịch, mới trở thành dân tộc hiện nay nhưng nói rút lại một thứ tình đặc biệt phát hiện trên lịch sử không thể tiêu diệt”. Nói cách khác, Phan Châu Trinh cho rằng người Việt Nam hiện nay là một dân tộc bản địa đã ít nhiều “Hán hóa” trong quá trình tiếp xúc với Trung Hoa. Cũng trong đoạn ghi chú nói trên, ông phê phán mạnh mẽ tinh thần sùng bái Trung Hoa của các sử gia đời trước: “Riêng với các sử gia hàng ngàn năm sùng bái Trung Quốc, vàng thau lẫn lộn, phụ hội vá víu mà phát biểu đặc tính của dân ta, gây ra tính căn ỷ lại, thì nước ta không thể làm được. Xem Trung Quốc là cha, cam chịu làm con, đọc lên khiến người chìm đắm tính linh, nuôi thành thói quen ỷ lại. Nếu không lấy con mắt sáng suốt mà xem, thì không thấy từ nay về sau phải đem những sự vẽ vời vô vị ấy mà xóa sạch đi”. (sđd, tr. 560-562, Nc 6) [4]
Đọc đến đây, có thể có một số độc giả nghĩ rằng mâu thuẫn về nhận thức giữa hai nhà yêu nước họ Phan bắt nguồn từ một vấn đề thuộc về thời tiền sử (préhistoire, prehistory): vấn đề nguồn gốc dân tộc Việt Nam. Thật ra, nếu suy nghĩ một cách thấu đáo, chúng ta sẽ thấy vấn đề chủng tộc không phải là yếu tố quyết định, bởi lẽ các luận thuyết trong lĩnh vực này thường là giả thuyết, không dễ dàng kiểm chứng về mặt khoa học. Mặt khác, dân tộc (nation) và chủng tộc (race) là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau: những người cùng chủng tộc có thể gia nhập các dân tộc khác nhau, và những người khác chủng tộc có thể cùng nhau hình thành nên một dân tộc. Xét đến cùng, dân tộc là một thực thể mang tính chính trị và văn hóa nhiều hơn là sinh học.

KÊU GỌI NHÀ CẦM QUYỀN VIỆT NAM KIỆN TRUNG QUỐC RA TOÀ ÁN QUỐC TẾ VÀ ĐẨY MẠNH HỢP TÁC QUỐC PHÒNG VỚI CÁC NƯỚC CÓ CHUNG QUYỀN LỢI


I Tình hình
Đầu tháng 07 năm 2019, nhà cầm quyền Trung Quốc đưa tàu Hải Dương 08 và các tàu hộ tống ra vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam như vào nơi vô chủ. Mới đây nhà cầm quyền Trung Quốc lại đưa tàu cần cẩu Lam Kinh vào vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam, có lúc chỉ cách bờ biển Việt Nam 90 km. Cho đến nay những tàu ấy vẫn còn quấy phá vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Đây là lúc thuận lợi nhất để kiện Trung Quốc ra toà án quốc tế. Vậy mà, trong những phản ứng yếu ớt không xứng tầm của một dân tộc từng được coi là tấm gương bất khuất cho các nước nhỏ yếu, chính quyền Việt Nam không hề nhắc đến tên kẻ đang xâm phạm chủ quyền quốc gia, và vẫn tỏ ra quá dè dặt trong việc kiện Trung Quốc. Thái độ ấy của chính quyền gây ra sự nghi hoặc và bất bình rất lớn trong nhân dân và khiến các nước hữu hảo không thể tích cực giúp đỡ Việt Nam bảo vệ chủ quyền.
Một sự thật không thể phủ nhận là từ ngàn đời nhà cầm quyền Trung Quốc luôn có chủ trương nhất quán không bao giờ từ bỏ tham vọng xâm lấn xâm chiếm Việt Nam. Trong tình thế hiện nay, Trung Quốc có lực lượng quân sự, kinh tế mạnh hơn Việt Nam rất nhiều lần và đang từng ngày, từng giờ ngang nhiên thách thức chủ quyền của Việt Nam. Tuy nhiên, Việt Nam đang đứng trước thuận lợi chưa từng có: nhiều nước lớn như Úc, Cộng Đồng Châu Âu,… đặc biệt là Hoa Kỳ, đã mạnh mẽ lên án nhà cầm quyền Trung Quốc gây bất ổn và nguy hiểm trên biển Đông, hăm doạ các nước khác trong khu vực.
Đã đến lúc nhà nước Việt Nam phải chủ động liên thủ với các nước có cùng quyền lợi trên biển Đông, bằng mọi biện pháp mạnh mẽ và chính đáng tự bảo vệ trước mọi hành động và tham vọng xâm lấn của Trung Quốc trước mắt và lâu dài.
Đã đến lúc phải chấm dứt ứng xử “đu dây” đã kéo dài quá lâu. Đã đến lúc không thể chấp nhận sự thách thức hết mức của nhà cầm quyền Trung Quốc đối với chủ quyền quốc gia. Chấm dứt “đu dây” để dứt khoát gia nhập cộng đồng các nước dân chủ, văn minh, con đường duy nhất đảm bảo cho sự phát triển giàu mạnh, cơ sở vững vàng để bảo vệ độc lập, chủ quyền.
II. Kêu gọi nhà cầm quyền Việt Nam:
Vì những lẽ trên, chúng tôi, các cá nhân, các tổ chức xã hội dân sự kêu gọi nhà cầm quyền Việt Nam:
1. KIỆN NHÀ CẦM QUYỀN TRUNG QUỐC về việc xâm phạm quyền lợi kinh tế biển của Việt Nam ở Biển Đông và kiện đòi nhà cầm quyền Trung Quốc trả lại các đảo của Việt Nam thuộc quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà Trung Quốc đã cưỡng chiếm bằng vũ lực.

Thứ Tư, 11 tháng 9, 2019

TUYÊN BỐ CỦA VIỆN NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN IDS


TS Nguyễn Quang A: Kính gửi các quý vị,
Ngày 14-9-2019 này là vừa tròn 10 năm Viện IDS ra tuyên bố ngừng hoạt động với tư cách một tổ chức có đăng ký. Ngày 23-9-2009 đa số các thành viên IDS và một số người khác đã lập ra nhóm 23, một nhóm phi chính thức để tiếp tục hoạt động. Nhóm 23 đã khởi xướng nhiều kiến nghị mà nổi bật nhất là Kiến Nghị 72 về sửa đổi Hiến Pháp 2013 mà rất nhiều quý vị trong diễn đàn này đã tham gia. Sau Kiến nghị 72 là sự ra đời của Diễn đàn XHDS. Nhân dịp 10 năm IDS ra tuyên bố, xin gửi lại quý vị bản tuyên bố để quý vị có thể nhớ lại. Nhân dịp này, nếu các vị có thể đăng lại, phân tích về sự kiện này thì chúng tôi rất cảm ơn.
Nguyễn Quang A
TUYÊN BỐ CỦA VIỆN NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN IDS
Ngày 24-7-2009 Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng ký Quyết định số 97/2009/QĐ-TTg ban hành danh mục các lĩnh vực cá nhân được thành lập tổ chức khoa học và công nghệ (sau đây gọi là Quyết định 97), có hiệu lực từ ngày 15-09-2009.
Viện Nghiên cứu phát triển IDS nhận thấy Quyết định 97 có những sai phạm nghiêm trọng sau đây:
Một là: Điều 2 của Quyết định 97 không phù hợp với thực tế khách quan của cuộc sống.
Khoản 2, điều 2 trong quyết định này ghi: cá nhân thành lập tổ chức khoa học công nghệ “chỉ hoạt động trong lĩnh vưc thuộc Danh mục ban hành kèm theo Quyết định này. Nếu có ý kiến phản biện về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước cần gửi ý kiến đó cho cơ quan Đảng, Nhà nước có thẩm quyền, không được công bố công khai với danh nghĩa hoặc gắn với danh nghĩa của tổ chức khoa học và công nghệ.”
Như vậy khoản 2 của điều 2 bao gồm 2 điểm chính là
1. các lĩnh vực được phép nghiên cứu quy định trong danh mục kèm theo Quyết định, và
2. không được công bố công khai ý kiến phản biện với danh nghĩa của một tổ chức khoa học và công nghệ.

ĐẤT NƯỚC NHỮNG THÁNG NĂM THẬT BUỒN!


Nguyễn Khoa Điềm

Đất nước những năm thật buồn
Nửa đêm ngồi dậy hút thuốc vặt
Lần mò trên trang mạng tìm một tin lành
Như kẻ khát nước qua sa mạc
Chung quanh yên ắng cả
Ngoài đường nhựa vắng tiếng xe lại qua
Người giàu, người nghèo đều ngủ
Cả bầy ve vừa lột xác
Sao mình thức?
Sao mình mải mê đeo đuổi một ngày mai tốt lành?
Bây giờ lá cờ trên Cột cờ Đại Nội
Có còn bay trong đêm
Sớm mai còn giữ được màu đỏ?
Bây giờ con cá hanh còn bơi trên sông vắng
Mong gặp một con cá hanh khác?
Bao giờ buổi sáng, buổi chiều nhìn ra đường
Thấy mọi người nhẹ nhàng, vui tươi
Ấm áp ly cà phê sớm
Các bà các cô khỏe mạnh yêu đời
Hớn hở tập thể dục
Bao giờ giọt nước mắt chảy xuống má
Không phải gạt vội vì xấu hổ
Ngước mắt, tin yêu mọi người
Ai sẽ nắm vận mệnh chúng ta
Trong không gian đầy sợ hãi?
Những cây thông trên núi Ngự Bình thấp thoáng ngọn nến xanh
Đời đời an ủi
Cho người đã khuất và người sống hôm nay …
22.4.2013
Nguồn: Quê Choa.

“SỰ SỢ HÃI KHÔNG CỨU ĐƯỢC CHÚNG TA”




Đó là câu lấy từ bài thơ "Nhân dân" của Nguyễn Khoa Điềm. Ai cũng biết, ông từng là Ủy viên bộ chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tư tưởng- văn hóa, Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin... Nhưng với tôi hơn tất cả ông là một thi sĩ có nhiều bài thơ hay. Thơ ông đã vào nhà trường từ lâu với các bài “Mẹ và quả”, “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ”; “Đất nước” trích từ trường ca “Mặt đường khát vọng”…
Bảy năm trước ông viết bài “Nhân dân”. Sáng nay, một sáng thu Hà Nội, bên ngắt xanh cây lá; trong rực rỡ nắng vàng, tôi ngồi đọc lại vẫn thấy cay cay nơi sống mũi.
NHÂN DÂN
Cúi mình trên đồng lúa
Lao lên các hoả điểm chiến tranh
Lăn mình trong các cuộc xuống đường
Cặm cụi với sách vở
Họ là nhân dân thứ thiệt
Nhưng trên diễn đàn cao nhất nước
Có người nói nhân dân chưa đủ trí tuệ
Để hưởng luật biểu tình!
Tôi nghĩ mãi
Ai đã bầu ra ông nghị này nhỉ?
Sao lại sợ nhân dân biểu tình?
Không!
Sự sợ hãi không cứu được chúng ta
Mà chính là sự can đảm
Đi tới dân chủ.
(Nguồn: Nguyệt san Văn chương ngày nay, số 5, Chào xuân Nhâm Thìn, 12-1-2012).
Nhiều người nhắc chuyện, trước khi chết vua Phổ cầm tay Mozart nói:“Ta tiêu biểu cho trật tự, ngươi tiêu biểu cho cái đẹp. Biết đâu hậu thế sẽ quên ta mà nhớ đến ngươi”.Tôi thì thích câu thơ Lý Bạch:“Khuất Bình từ phú huyền nhật nguyệt/ Sở vương đài tạ không sơn khâu”(Tạm dịch: Thơ phú Khuất Nguyên sáng mãi cùng đất trời/ Lâu đài vua Sở chỉ còn là gò núi). Và nghĩ, hậu thế nếu nhớ sẽ chỉ nhớ Nguyễn Khoa Điềm - một nhà thơ.
Đỗ Ngọc Thống
HN 6-09-2019