Phạm Chí Dũng
Một nghịch lý kinh khủng đã, đang và sẽ còn hiện hình trong ‘nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa’ và trong ‘chính phủ kiến tạo’ ở Việt Nam: trong tài
khóa năm 2020, Chính phủ của Thủ tướng ‘Cờ Lờ Mờ Vờ’ Nguyễn Xuân Phúc dự kiến phải vay đến 460.000 tỷ đồng, tương đương khoảng 20 tỷ USD để ‘bù đắp ngân sách’, bất chấp Chính phủ này vẫn tung ra các báo cáo đầy lạc quan về tốc độ tăng trưởng GDP lên đến 7% và giống hệt chỉ số thành tích GDP của ‘Đảng anh’ Trung Quốc, gấp đôi mức tăng trưởng của Hoa Kỳ và gấp gần 3 lần mức tăng trưởng của Liên minh châu Âu (EU).
Vì sao
lại nghịch lý?
Từ ‘GDP ma’ đến ‘vay đảo nợ’
Nếu quả thực kinh tế Việt Nam tăng trưởng đến 7% GDP thì trừ đi khoảng hơn 4% trượt giá (đây là tỷ lệ lạm phát ‘ma’ do
Chính phủ ‘kiến tạo’ chứ hoàn toàn không
phải là lạm phát thực), vẫn còn lại đến 3% tích lũy cho ngân sách, tương đương 6 - 7 tỷ USD.
Nhưng trong thực tế, một số chuyên gia phản biện độc lập đã tính lại rằng GDP thực của Việt Nam chỉ đạt khoảng 2 - 2,5% - căn cứ theo số liệu của Tổng cục Thống kê. Nhưng vì số liệu của Tổng cục Thống kê lại thường không đáng tin cậy do quá thiên về chủ nghĩa thành tích và động cơ chính trị ‘Đại hội 13’ mà do đó thường vống hoặc khống, người ta cần có những số liệu thực tế hơn nhiều để tính lại GDP. Theo đó, không loại trừ khả năng GDP của Việt Nam chỉ tăng khoảng một vài phần trăm, thậm chí là âm, phù hợp với tình trạng số doanh nghiệp bị giải thể và phá sản ngày càng nhiều, cùng tốc độ đẩy tín dụng ra thị trường bị suy yếu, cho thấy sức khỏe nền kinh tế khá ốm yếu và mang nhiều triệu chứng suy thoái
trong những năm gần đây.
Hơn nữa, chỉ trong trường hợp GDP tăng trưởng thấp, nền kinh tế và ngân sách quốc gia mới ít hoặc không có tích lũy, và do đó mới cần phải vay nợ lớn từ trong nước và từ nước ngoài. Người ta có thể tự hỏi vì sao trong rất nhiều năm qua, năm nào Chính phủ cũng phải vay nợ từ 15 - 20 tỷ USD, trong đó có
một phần là dạng ‘vay đảo nợ’.
Trước đây, ‘vay đảo nợ’ là cụm từ bị chính quyền xem là ‘nhạy cảm chính trị’ và cấm báo chí nói về nó. Nhưng về sau này khi mạng xã hội phát triển và quá nhiều thông tin nhạy cảm được đăng tải trên mạng xã hội, khái niệm ‘vay đảo nợ’ đã không còn bị xem là cấm kỵ.
Còn bây giờ thì đành phải huỵch toẹt ra: ‘vay đảo nợ’ tức vay nợ mới để trả nợ cũ.
Trong nhiều năm qua, thực tế đã được chính giới chuyên gia tài chính nhà nước xác nhận là ngân sách Việt Nam không còn kết dư, cũng chẳng còn nguồn dự phòng để trả cho vô số các khoản nợ trong nước và nước ngoài, mà phải cắm đầu vay mượn: ở nước ngoài vay từ Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Ngân hàng Phát triển Á châu, Nhật Bản và một số nước khác, với phần lớn số tiền vay được dùng để trả nợ cho nợ gốc và lãi cho chính những chủ nợ này; còn trong nước vay từ các ngân hàng thương mại cổ phần, từ quỹ Bảo hiểm xã hội và Bảo hiểm y tế, và đổi lại là phát hành ‘trái phiếu Chính phủ’ để trả nợ, nhưng thực chất trái phiếu này mất giá nhanh theo thời gian và chẳng có gì bảo đảm là sẽ bù đắp vốn gốc cho những chủ nợ.