|
“Những người cộng sản thế hệ của ông Hồ Chí Minh, khi tin
vào lý thuyết cộng sản, bản chất là đã tin vào một con đường không có lối ra.
Lý thuyết của Marx về một xã hội công bằng tuyệt đối, bản chất là một sự lừa
bịp và ảo tưởng. Chừng nào loài người còn tồn tại thì sẽ luôn có sự khác biệt
giữa người với người. Sẽ có những người có năng lực tạo ra của cải cao hơn,
và do đó họ sẽ phải có quyền thụ hưởng cao hơn người khác. Sẽ là cực kỳ vô
đạo đức và cực kỳ đê tiện nếu người ta bắt những người như Bill Gates hay
Steve Jobs phải có mức thụ hưởng cào bằng như bất cứ ai, trong khi đóng góp
của họ cho văn minh nhân loại là vượt trội so với đại chúng. Nếu ngay tại
thời điểm này, toàn bộ của cải của thế giới được chia đều cho bất cứ ai đang
tồn tại trên trái đất, thì chỉ một giây sau, sẽ lại có sự chênh lệch giữa
người với người. Vì những người có năng lực sáng tạo và tài năng hơn, sẽ luôn
tạo ra được của cải nhiều hơn trên những gì họ có. Một xã hội theo hình dung
của Marx chỉ là một xã hội ảo tưởng và hoàn toàn lừa phỉnh. Ngay cả việc
những kẻ cuồng tín cộng sản có nắm được quyền hành và chia đều tất cả của
cải, thì ách cai trị của chúng sẽ chỉ dẫn tới sự triệt tiêu sáng tạo của nhân
loại: "Những người tài năng hơn sẽ lười đi vì họ không thể cứ mãi làm
cho người khác hưởng, còn những kẻ lười biếng sẽ càng lười hơn vì chúng sẽ
trông đợi người khác tạo ra của cải để chia cho mình". Sự thất bại của
Liên Xô, Việt Nam
và tất cả các nước cộng sản trong quá khứ trong việc tạo ra các giá trị vật
chất so với phương Tây có căn nguyên gốc rễ chính từ sự ảo tưởng và bịp bợm
ngay từ đầu trong lý thuyết mà họ tôn sùng”.
[... ...]
“Quay lại Việt Nam, tôi cho
rằng những người cộng sản thuộc thế hệ đầu tiên là những người yêu nước và có
lý tưởng. Nhưng họ chính là một đám cuồng tín luôn tin rằng mình duy nhất
đúng và sẵn sàng tiêu diệt không thương tiếc những ai khác ý kiến với mình.
Về mặt này, họ không khác gì nhà nước hồi giáo IS hiện nay, chúng phạm những
tội ác không gớm tay nhưng vẫn luôn tin rằng mình đúng. Tôi luôn kính trọng Đại
tướng Võ Nguyên Giáp, ông ấy là một danh tướng và là một anh hùng dân tộc.
Nhưng cũng chính ông Giáp là người đã tiến hành những chiến dịch tàn sát
thẳng tay với những người Quốc dân đảng vào năm 1946, khi họ cũng có chân
trong Chính phủ lâm thời. Họ vốn là hậu duệ của anh hùng dân tộc Nguyễn Thái
Học và nhiều tiền bối khác, nhưng họ có niềm tin lý tưởng khác những người
cộng sản. Lịch sử sẽ ghi công ông Giáp với tư cách một anh hùng, nhưng cũng
chính niềm tin cuồng tín là thứ thúc đẩy ông ta phạm vào những tội ác ghê gớm
với chính đồng bào mình. Những vụ trấn nước, thủ tiêu, ám sát của những người
cộng sản cuồng tín giết hại một số lượng không nhỏ người Việt Nam, và phần
lớn trong số đó cũng chính là những người yêu nước. Một lý tưởng sai lầm và
sự cuồng tín mê muội chính là đặc trưng căn bản của những người cộng sản thế
hệ của ông Hồ Chí Minh. Họ để lại một di sản sai lầm và những kẻ hậu duệ của
họ biến đi sản ấy thành một thứ quái vật tiêu diệt mọi tiềm năng đất nước.
“Khi những hậu duệ cộng sản ở Việt Nam lựa chọn nền kinh
tế thị trường và cố bấu víu nền cai trị độc tài, họ đã vi phạm mọi nguyên tắc
căn bản nhất để tạo ra một xã hội minh bạch, văn minh và công bằng về mặt cơ
hội phát triển cho con người (tôi muốn nhấn mạnh là công bằng về cơ hội phát triển
cho con người, chứ không phải công bằng về thụ hưởng). Bộ máy cai trị độc tài
với quyền lực không được kiểm soát, đã nhanh chóng biến tất cả những thành
phần của Đảng Cộng sản Việt Nam
thành một đẳng cấp ưu tiên. Sự kìm kẹp và tiêu diệt mọi tư tưởng độc lập của
giới trí thức đã tạo ra một xã hội cúi đầu. Chút lý tưởng của họ không còn vì
thực tại đã cho thấy lý tưởng của Marx chỉ là ảo tưởng. Khi một đám người
không còn lý tưởng và nắm quyền lực tuyệt đối trong tay, chúng nhanh chóng
tha hoá và biến thành tội phạm. Hiện nay bộ máy của chế độ cộng sản Việt Nam gồm hầu
như toàn bộ là những kẻ tham nhũng, vô đạo đức cả về vật chất lẫn quyền lực.
Sự lưu manh hoá của họ lớn dần theo thời gian và gây ra những bức xúc ngày
một lớn trong xã hội. Mọi chủ trương, mọi định hướng, mọi chính sách phát
triển quốc gia đều chỉ đẹp trên khẩu hiệu và bị bộ máy tham nhũng bóp méo
thành những thứ đem lại lợi ích cá nhân. Các khoản đầu tư công, các chính
sách phát triển... hầu như mọi thứ đều trở thành nguồn tham nhũng của bộ máy
công quyền. Bộ máy ấy khiến hiệu suất vận hành của nhà nước càng ngày càng
giảm, càng ngày càng tệ hại và càng ngày càng khiến những nguồn lực của quốc
gia bị teo tóp, những cơ hội phát triển bị bỏ lỡ. Tất cả họ đều nhúng chàm,
tất cả họ đều là tội phạm. Và mức độ thì ngày một tệ hại hơn theo thời gian
cho đến khi nào quyền lực độc tài của họ bị tước bỏ”.
[... ...]
“Trong nhiều năm qua, Đảng Cộng sản tuyên truyền về công
lao của họ trong phát triển kinh tế quốc gia. Họ lờ đi thực tế là tài nguyên
đất nước, môi trường sống vốn là những của cải cần được sử dụng dè sẻn và để
lại cho đời sau thì nay đã bị họ đốt hầu hết cho hiện tại, mà phần lớn trong
số đó đã rơi vào túi những tay tham nhũng. Và số nợ mà chế độ này đã vay thì
đã vượt quá khả năng cân bằng của họ. Tất nhiên chế độ này khi kết thúc sẽ
không trả nợ, người trả chính là người dân Việt Nam. Và tình trạng nợ công của
Việt Nam
đến nay đã cực kỳ nguy ngập. Từ năm 2016 trở về trước, người ta nói về số
liệu nợ công đã vượt ngưỡng trần tính trên tỷ lệ GDP và năng lực cân đối dòng
tiền của ngân sách. Từ lúc ông Nguyễn Xuân Phúc nắm quyền cho đến khoảng
tháng 9/2016, Chính phủ của ông ta đã vay nợ ròng thêm trên dưới 8 tỷ USD.
Cái gọi là giới hạn hay trần an toàn giờ là thứ không còn ai nhắc tới. Trong vòng
5 năm tới, khả năng rất cao Việt Nam sẽ rơi vào tình trạng vỡ nợ quốc gia,
khi Chính phủ không thể trả nổi các khoản nợ đáo hạn. Tình trạng của Venezuela sẽ là viễn cảnh của Việt Nam.
“Tuy nhiên chế độ hiện nay có thể trì hoãn cái chết bằng
cách dựa dẫm vào nguồn tiền từ Trung Quốc. Và chẳng có bữa trưa nào miễn phí
trên đời, đi kèm với đó sẽ là những cuộc mặc cả đen tối mà chủ quyền đất nước
bị bán rẻ. Tất nhiên, khi sự thật lộ ra thì đất nước này sẽ chìm vào một biển
máu mà sự phẫn nộ của người dân sẽ tàn sát tất cả. Và trong tình huống nổi
loạn diễn ra, đất nước này sẽ bị kéo lùi lịch sử trên dưới 20 năm.
“Tôi muốn tránh cái viễn cảnh bi đát ấy và bất cứ người
Việt Nam nào cũng đều muốn tránh, tôi tin, bao gồm cả những người cộng sản.
Đơn giản là bất cứ ai cũng sợ chết, đặc biệt là những người giàu, trong khi
đó các hậu duệ cộng sản và gia đình họ thì đã quá giàu. Vì thế tôi kỳ vọng
rằng những cuộc đối thoại sẽ đến để tránh một kết cục bi đát cho tất cả. Chế
độ rồi sẽ đi đến điểm kết, nhưng đó có thể là một điểm kết đau đớn hoặc một
sự chuyển biến sang văn minh trong hoà bình.
“Người Myanmar
đã làm được điều đó, khi Chính phủ độc tài của Tổng thống Thein Sein đứng về
phe dân tộc. Họ cũng đã từng đi theo con đường chủ nghĩa xã hội trong trên
dưới 25 năm (1963 đến những năm 1980), họ cũng là những kẻ độc tài bị thế
giới cô lập và lệ thuộc nặng nề vào Trung Quốc. Họ cũng có hơn 1.000 km đường
biên giới với Trung Quốc và có những phe nhóm ly khai gốc Hoa đang cầm súng
chống lại chính quyền. Nhưng với con đường hoà giải và hợp tác, hiện nay họ
đã đi trên đúng lộ trình để văn minh hoá đất nước. Con đường của Myanmar không
dễ đi, nhưng họ đã thoát được khỏi màn đêm.
“Tôi muốn nói rằng, đó là một tấm gương cho chế độ cộng
sản Việt Nam.
Họ có thể thay đổi để tiếp tục tồn tại như một lực lượng chính trị giữ vai
trò quan trọng trong một tương lai không hề ngắn. Họ có thể cải cách để giữ
lại quyền tồn tại của mình, và điều quan trọng nhất là điều đó sẽ mở ra cánh
cửa để Việt Nam
đi theo đúng lộ trình văn minh hoá quốc gia.
“Tất nhiên những cải cách không phải có thể đến ngay một
sớm một chiều. Ngay từ lúc ngày, chế độ Việt Nam có thể tiến hành những bước
đi đầu tiên:
1. Nới lỏng kiểm duyệt báo chí và mạng xã hội. Đó là cách
tốt nhất để góp phần giảm tham nhũng và minh bạch quốc gia. Nó cũng là bước
đi đầu tiên để cải thiện hình ảnh của chế độ trước mắt công chúng. Nới lỏng
kiểm duyệt không đồng nghĩa với việc những lời chỉ trích Chính phủ sẽ tăng
lên, trái lại, xã hội sẽ ghi nhận và bước đầu ủng hộ khi chế độ đi trên đường
đúng.
2. Sa thải và tái bố trí việc làm cho ít nhất 30% người
hưởng lương ngân sách, chỉ có bằng cách đó mới đảm bảo được việc cân đối giữa
nguồn thu, nguồn trả nợ và các khoản đầu tư công cần thiết phục vụ phát triển
đất nước. Tăng thu nhập cho toàn bộ đội ngũ công chức còn phục vụ, đảm bảo
mức thu nhập của khu vực công về mặt chính thức là ngang bằng hoặc tương ứng
với 80% thu nhập của khu vực tư. Đây là cách duy nhất để giúp chặn làn sóng
ăn cắp và tham nhũng bắt buộc của những công chức có thang bậc đãi ngộ thấp
hiện nay.
3. Ban hành một đạo luật chống tham nhũng mới, theo đó ấn
định một sắc lệnh ân xá cho tất cả các hành vi tham nhũng phát sinh trong quá
khứ, đồng thời đề ra những mức án cực nặng cho các vụ việc tham nhũng mới
phát sinh sau thời hạn ân xá.
4. Thành lập một cơ quan tư pháp mới, một cơ quan điều tra
mới hoàn toàn tách biệt với tất cả những cơ quan tư pháp và điều tra hiện
nay. Chọn lựa những người có đạo đức và lý tưởng phụng sự quốc gia vào những
cơ quan này và cấp cho họ chế độ đãi ngộ đặc biệt. Những cơ quan này được
trao quyền điều tra, truy tố và xét xử tất cả các vụ việc tham nhũng mới phát
sinh sau thời hạn ân xá được ấn định trong luật chống tham nhũng mới.
6. Giải tán Mặt trận Tổ quốc hiện tại, thành lập một mặt
trận toàn dân mới theo đó các đại diện được lựa chọn thông qua bầu cử một
cách công khai, minh bạch. Các đại biểu này sẽ cùng thành lập một hội đồng
soạn thảo Hiến pháp mới. Cần đề ra một lộ trình thay đổi Hiến pháp, ấn định
thời điểm chấp nhận việc thành lập tự do chính đảng (có thể là một lộ trình 5
năm). Nội dung cơ bản nhất của Hiến pháp mới cần có những nhân tố căn bản của
một xã hội văn minh, trong đó yếu tố nền tảng phải được xây dựng xoay quanh
quyền lập chính đảng và bầu cử tự do. Để tránh các xung đột với chế độ hiện
tại, có thể học theo đúng mô hình Myanmar đang thực hiện: Chế độ cũ
nắm quyền chỉ định 25% số ghế nghị viện không cần bầu cử, và nắm quyền phủ
quyết Hiến pháp. Đây là một sự cải cách nửa vời, nhưng nó là cách tốt nhất để
bắc một cái cầu giữa hiện tại với tương lai, cho đến khi đất nước đủ văn minh
để có một bản Hiến pháp thực sự tiến bộ.
7. Trên tất cả, cần thực sự cầu thị, cần thực sự thiện chí
vì đó là cách duy nhất giúp đất nước tránh khỏi vực thẳm hoang tàn của bạo
loạn và chiến tranh.
“Sẽ chỉ có hai con đường với chế độ cộng sản hiện nay:
Hoặc tiếp tục cố níu kéo quyền lực, vay nợ mọi thứ, bán rẻ mọi thứ cho đến
ngày tàn dìm đất nước và chính chế độ này vào lò lửa chiến tranh, hoặc bắt
đầu thay đổi, để tạo cơ sở cho đất nước này hướng tới tương lai trong đó bao
gồm tương lai của chính Đảng Cộng sản”.
Lang Anh
|