Thứ Ba, 21 tháng 5, 2024

Một Đôi Dòng vè Chữ Việt trong Tiếng Việt.

FB Nhật Nguyệt Minh

  · 


Có lần mình hỏi một anh bạn, vốn là người có thâm niên sống và làm việc bên Trung Quốc đã lâu, cái tên Việt Nam trong tiếng Trung nghĩa là gì? Anh ấy giải thích, ở Quảng Đông người ta vẫn dùng chữ Việt () để nói về cư dân ở đấy, vì họ cho rằng ngày xưa họ là người Bách Việt (百粵), nhưng chữ Việt () này hoàn toàn khác với chữ Việt () của Đại Việt ( ) và chữ Việt của Việt Nam ( ). Chữ Việt () trong Bách Việt là chỉ nói đến cư dân sinh sống ở vùng Lưỡng Quảng, còn chữ Việt () trong Việt Nam là nói về sự vượt qua một giới hạn nào đó, ở đây đó là quá trình vượt qua, hay vượt lên trong hành trình về phương Nam, có nghĩa là không có liên quan gì đến Trung Quốc cả.

Theo logic đó, căn cứ trên nguyên gốc của chữ Hán thì đúng là các cụ ngày xưa dùng chữ Việt trong tên gọi Việt Nam, hay chữ Việt trong tên gọi Đại Việt, đều là chung một chữ, đó là chữ Việt này (), chứ không dùng chữ Việt kia () của Bách Việt. Vậy mà, không biết từ bao giờ, rất nhiều người vẫn nghĩ Việt Nam nghĩa là nước Nam của người Việt, hoặc là nước Việt nằm về phương Nam so với Trung Quốc.

Tự nghĩ, tại sao một vùng cương thổ độc lập đã nghìn năm mà tên gọi lại phải đi lấy tên của một quốc gia khác làm hệ quy chiếu, như ngày nay mạng xã hội vẫn hay dùng chữ Đông Lào để nói về nước mình là ví dụ, tất nhiên là có ý đùa cợt, nhưng các vua của ta ngày xưa thì không đùa. Ý nghĩa của hai chữ Việt Nam bấy lâu nay thường được diễn giải theo chủ quan của hậu thế, nhưng đừng quên rằng tên nước Việt Nam là do vua Gia Long chính thức định danh vào năm 1804, vậy nên, để hiểu cái tên này ý nghĩa như thế nào thì chúng ta cần phải tìm hiểu lại các văn bản, hoàn cảnh và sự kiện của nhà Nguyễn có liên quan, chứ không nên nhồi nhét cách nghĩ của đời sau vào miệng của tiền nhân một cách thô thiển như thế.

Thứ Hai, 6 tháng 5, 2024

GHI CHÉP CỦA ĐẠI TÁ VŨ ĐÌNH HUỲNH-BÍ THƯ CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH MỘT SỐ SỰ KIỆN CỦA CHÍNH PHỦ NĂM 1950 TẠI CHIẾN KHU VIỆT BẮC

 LÒNG DÂN ĐỐI VỚI CÔNG CUỘC KHÁNG CHIẾN KIẾN QUỐC QUA VĂN THƯ CỦA BÍ THƯ CHỦ TỊCH NƯỚC VŨ ĐÌNH HUỲNH TRONG NĂM 1950

KHỔNG ĐỨC THIÊM

( Nguyên Trưởng Phòng Tư liệu Văn phòng Chính phủ )




Vũ Đình Huỳnh (1905-1990), quê Nam Định, Bí thư riêng của Hồ Chủ tịch từ trước Cách mạng tháng 8, có một thời gian được cử làm Đặc phái viên Chính phủ, tiếp tục nhiệm vụ từ năm 1948 đến 1954. Để hiểu một phần nhiệm vụ của ông , xin giới thiệu một vài văn thư trao đổi với các nơi và qua đó để các bạn thấy được tình cảm của người dân đối với lãnh tụ và sự nghiệp kháng chiến:

• Công văn 24-1-1950 gửi Bộ trưởng Bộ Quốc phòng cho biết, Văn phòng Chủ tịch nước thừa lệnh Hồ Chủ Tịch chuyển 17.400 đ của các ông bà Phan Văn Hệ (Vinh Quang ,Tam Dương -Vĩnh Phúc ), Lê Thị Thanh (Vinh Quang ,Bất Bạt -Sơn Tây), Hoàng Văn Tuấn và Trần Văn Tiệp (Chấn Hưng ,Nghĩa Hưng -Nam Định), họ Lại ( Phù Vân ,Kim Bảng -Hà Nam) và CĐ ( chỉ đạo ) báo CQ ( cơ quan )...để Bộ đặt làm giải thưởng cho bộ đội.

•Thư 3-6-1950 gửi CTUBKCHCLKVB ( Chủ tịch ủy ban khánh chiến hành chính khu Việt Bắc ) đề nghị xác thực tin ông Nguyễn Như Tuyên, điền chủ ở Hiệp Hòa -Bắc Giang dâng lên Hồ Chủ tịch 300 mẫu ruộng, 1560 mẫu đất đăng trên báo Cứu Quốc ngày 30-5-1950.

Chủ Nhật, 5 tháng 5, 2024

RA MẮT SÁCH HỒI ỨC ĐIỆN BIÊN PHỦ - NHỮNG NHÂN CHỨNG LÊN TIẾNG

 FB Dương Quốc Chính – 3/5/2024

Chiều nay mình tham dự buổi ra mắt cuốn sách này tại ĐH Sư phạm HN, sách do NXB ĐH SP xuất bản. Trong lúc chờ các thủ tục rằng thì là mà quen thuộc giới thiệu quan khách linh tinh, mình đã kịp đọc qua 1 số trang sách và thấy khá bất ngờ về nội dung.

Thực ra không có quá nhiều nội dung mà mình chưa biết, vì mình cũng đã đọc nhiều sách về ĐBP, đủ các lề, tất nhiên lề phải vẫn nhiều hơn, không anh em lại bảo mình sính Tây! Nhưng chắc chắn ở cuốn này là 1 góc nhìn rất khác với sách Việt Nam. Sách Việt Nam về cơ bản có nội dung na ná nhau, đúng lề, thường hay đi sâu vào chi tiết hơn là các phân tích nhân quả, chiến lược.

Cuốn sách này đã nêu một số chi tiết mà mình cho là nhạy cảm, sách do phía Việt Nam viết sẽ không có. Cụ thể là:


Thứ Sáu, 3 tháng 5, 2024

Phản biện đường lối cán bộ của Đảng CSVN

 Nguyễn Đình Cống

Nhân có nhiều cán bộ cao cấp của Đảng bị truất phế, tôi xin gửi một bài đã đăng vào năm 2018, ngày nay vẫn còn giá trị tham khảo

Kỳ 1

1- Đặt vấn đề

Lãnh đạo ĐCSVN đang loay hoay với vấn đề cán bộ (CB), đặc biệt là CB cấp chiến lược. Họ khát khao có được đội ngũ CB vững mạnh, nhưng càng ngày thực tế càng xa rời mong ước, càng phát hiện ra nhiều CB thoái hoá biến chất, làm mất lòng tin của dân, làm ruỗng nát tổ chức, làm lung lay sự lãnh đạo. Họ tìm đủ trăm phương ngàn kế để quy hoạch, lựa chọn, đào tạo, đề bạt, giám sát CB, xây dựng và làm trong sạch tổ chức, nhưng chủ yếu vẫn không đạt được. Vì sao vậy? Phải chăng vì kém trí tuệ và kiêu ngạo mà họ đã chọn chủ thuyết có nhiều độc hại để tôn thờ, làm việc trái ĐẠO TRỜI và LÒNG NGƯỜI. Như thế càng quẫy đạp càng chui sâu vào đống bùng nhùng không lối thoát.

Thực tế cuộc sống, lịch sử và sách báo đã giúp tôi suy nghĩ, chiêm nghiệm, nhận thức về việc làm CB, hoặc theo cách nói dân giả là làm quan. Tôi đề ra thuyết Tam đại và Tam ủng cho việc làm quan (Tam Đại là Đại Nhân, Đại Nghĩa, Đại Sự. Tam Ủng là sự ủng hộ của 3 cấp), cũng đã viết vài bài tiểu luận, một số phản biện về nghị quyết, quy định của ĐCSVN liên quan đến công tác CB. Phản biện này chủ yếu là tập hợp những điều tôi đã viết và công bố, cộng thêm một số suy nghĩ và phát hiện gần đây. Tôi viết nhân dịp nghe nói trung ương Đảng họp lần thứ 9 vào cuối tháng 12/2018 để thảo luận về công tác cán bộ.

Sự suy nghĩ, hiểu biết của một con người là có hạn và chắc rằng những điều được viết trong bài này cũng được nhiều người suy nghĩ, hiểu biết và bàn luận. Tôi trình bày các ý kiến của cá nhân, hy vọng có thể gợi ra vài tham khảo hoặc phản bác.

2- Gốc gác của mọi vấn đề

Chủ nghĩa Mác Lê nin ( CNML) là gốc gác đường lối CB của CS. Lãnh đạo ĐCSVN quá tin vào nó, kiên trì nó phải chăng vì chỉ thấy mặt tích cực giả tạo của nó mà không thấy được những độc hại có thật do nó gây ra. Phải chăng vì một thời được học, được nhồi sọ CNML rồi tự bịt mắt, tự bưng tai, để không thấy thực tế, không nghe sự thật, rồi còn bịt mồm người khác, không cho phản biện. Hay còn lý do nào khác. Có thể một số nào đó biết rõ độc hại của CNML, nhưng cố tình lợi dụng nó để vinh thân phì gia, để thi hành mưu sâu kế hiểm.

ĐCSVN đã từng là đảng cách mạng, nay trở thành một đảng chính trị, cầm quyền. Cần thay đổi tổ chức cho phù hợp với nhiệm vụ mới. Thế mà họ không nhận thức được, vẫn khăng khăng tiếp tục như cũ, tự tạo ra mâu thuẫn không sao khắc phục được.

ĐCSVN tự cho mình quyền lãnh đạo toàn diện, đặc biệt là quyền quyết định về CB. Đó là cướp quyền của dân. Họ bày ra trò dân chủ giả hiệu trong bầu cử để lừa mọi người và tự lừa mình.

Đó là đống bùng nhùng lớn mà ĐCSVN đang vướng phải. Không chịu tìm cách thoát ra mà vẫn lăn lộn trong đó thì không có cách nào tạo được đội ngũ CB tài giỏi và liêm khiết, nói gì đến việc có thể nêu gương.

3- Về tiêu chuẩn CB Có thể quy CB về 2 loại theo nguồn gốc: được bầu và được tuyển. Tiêu chuẩn (TC) chung nhất cho CB là Tài và Đức (CS gọi là Hồng và Chuyên). Tuy vậy nhận thức và vận dụng trong từng giai đoạn có khác nhau.

Hồ sơ quan trọng nhất là lý lịch. Đã từng có thời tổ chức chỉ xét người theo lý lịch. Nhờ lý lịch sáng đẹp một số kẻ ngu dốt và lười biếng đã trở thành ông nọ bà kia. Vì lý lịch có tỳ vết mà nhiều tuổi trẻ tài năng ôm hận chịu vùi dập.

Đối với CS tiêu chuẩn quan trọng nhất có lẽ là Trung thành. Với một đảng hoạt động bí mật, một quân đội thì trung thành là bắt buộc, nhưng đảng chính trị cầm quyền không thực sự cần. Tổng thống Trump của Mỹ đã vào đảng Dân chủ, bỏ Dân chủ, vào Cộng hòa, bỏ Cộng hòa gia nhập đảng Cải cách, bỏ Cải cách để trở lại vào Dân chủ. Lại bỏ Dân chủ quay về với Cộng hòa. Thế mà chẳng thấy ai quan tâm đến sự không trung thành của ông ta. Chỉ có kẻ độc tài mới đòi hỏi cao sự trung thành. Mọi thể chế dân chủ không đòi hỏi trung thành với đảng phái chính trị.

Tiêu chuẩn phải làm qua CB cấp dưới đủ thời gian nào đó mới được đề cử, ứng cử lên cấp trên. Tôi gọi đó là cách leo trèo mà không chấp nhận bước nhảy. Sự phát triển tiệm tiến, trèo dần từng bước là bình thường, nhưng cần có những bước nhảy dành cho những tài năng vượt bậc. Loại bỏ bước nhảy có tác hại ngăn trở tài năng.

Tiêu chuẩn đã có nhiều thành tích và kinh nghiệm là khá thiển cận, ngăn trở việc tìm kiếm những năng lực tiềm ẩn. Chọn CB là để người đó phát huy năng lực, làm những việc mới chứ không phải để họ lặp lại những công việc đã làm. Đành rằng qua việc đã làm thì có thể đánh giá năng lực. Nhưng đó là năng lực trong quá khứ. Giữa một người có nhiều thành tích mà đã cạn tiềm năng và một người tuy chưa có thành tích (vì chưa được làm), nhưng có nhiều tiềm năng thì rất nên chọn người có tiềm năng. Ở đây có cái khó là người chưa làm, chưa có thành tích, sao mà biết được họ có tiềm năng (điều này sẽ bàn sau, trong mục 4 và 5).

Nếu cứ phải qua cấp dưới, cứ phải có thành tích thì Lưu Bị không bái Khổng Minh làm quân sư, chúa Nguyễn Phúc Nguyên không phong cho Đào Duy Từ chức Nha úy nội tán, Tề Hoàn Công không phong đại phu cho người chăn trâu Ninh Thich, Những người vừa kể đã làm nên sự nghiệp lẫy lừng trong lịch sử. Và gần đây, nếu theo yêu cầu phải leo trèo dần qua các chức vụ thì dân Mỹ không bầu Trump làm Tổng thống năm 2016. 

Kỳ 2

Dân mình?

 Mạc Văn Trang

Dân mình Chúa, Phật chẳng tin

Tin ông Mác - Lênin

Thờ mấy thần tài, con ma, chó đá

Cúng dường cho đám giả tăng…

Dân mình biết quan nói những điều dối trá

Đạo đức diễn hề

Vẫn tin tưởng, phục tùng

Náo nức đi bầu, 100% phiếu thuận!

Bây giờ ai bị cướp nhà, cướp đất, giải tỏa, thu hồi,

bị bắt, bị tù, bị giết…

Xóm làng sợ vạ lây

“Đỉa cắn chân là ai người đó giãy!”

Chẳng còn “Một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ”

Chẳng còn chuyện một người chết oan cả làng, cả xã kéo đi tranh đấu…

Thứ Hai, 29 tháng 4, 2024

Kiến nghị khẩn thiết, mong muốn cháy bỏng!

 Nguyễn Đình Bin

27-4-2024

Đảng phải từ bỏ học thuyết Mác-Lênin đã thực sự lỗi thời. Đây chính là cội nguồn đẻ ra đặc quyền đặc lợi, các nhóm lợi ích vị kỷ, làm cho kinh tế thị trường méo mó, không phát huy được đầy đủ các mặt mạnh vốn có; ngược lại, đã tạo ra mảnh đất mầu mỡ cho các mặt tiêu cực phát triển, nạn tham nhũng và các quốc nạn khác, ngày càng trầm trọng, đang tiếp tục hoành hành, phá hoại chính đảng, nhà nước và xã hội ta, đến tận cội rễ là con người, đặc biệt nguy hiểm là người nắm quyền sinh, quyền sát quốc gia; bất chấp Đảng, dưới sự lãnh đạo và chỉ đạo trực tiếp, thực sự tâm huyết, quyết liệt, sát sao của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, đến nay đã qua hai nhiệm kỳ rưỡi liền, ra sức tự xây dựng, tự chỉnh đốn, ra sức đốt lò và tăng cường các biện pháp phòng, chống khác. các siêu đại án, các vụ xử lý kỷ luật và hình sự liên tiếp, dồn dập các lãnh đạo cao nhất cấp trung ương và tỉnh thành, và từ nhiệm của 5 Ủy viên Bộ chính trị, kế tiếp nhau, trong đó 2 là Chủ tịch nước, và 1 là Chủ tịch Quốc hội, vừa diễn ra, đã minh chứng hùng hồn điều đó.

Thảm trạng này chưa từng xẩy ra, từ khi Đảng CSVN cầm quyền, đã chứng tỏ: thể chế chính trị hiện hành đang khủng hoảng trầm trọng!

Cũng như tại Đại hội VI, trước khủng hoảng kinh tế-xã hội, Tổng bí thư, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Trường Chinh và Trung ương Đảng khóa V đã thức tỉnh, dũng cảm từ bỏ mô hình kinh tế Mác-Lênin Xã hội chủ nghĩa đã hoàn toàn lỗi thời, để chấp nhận và vận dụng kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, là thành tựu chung của nhân loại, mà đến thời điểm đó, Tổng bí thư, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Trường Chinh và Đảng vẫn kiên quyết chống lại;

thì tại Đại hội XIV tới, để thoát khỏi khủng hoảng thể chế chính trị hiện hữu, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và Trung ương Đảng khóa XIII, hãy noi gương Tổng bí thư Trường Chinh và Trung ương Đảng khóa V, dũng cảm từ bỏ học thuyết Mác-Lênin đã thực sự cổ hủ, chấp nhận và vận dụng mô hình thể chế chính trị tốt nhất, kiểm soát quyền lực hiệu quả nhất, phát huy dân chủ và sức sáng tạo của toàn dân tộc mạnh mẽ nhất, đã được chứng minh trên thế giới. Mô hình thể chế chính trị này cũng là một thành tựu chung của nhân loại cho đến nay. Đó là nhà nước pháp quyền thực sự, mà các nước phương Tây, Dân chủ, và hầu hết các nước láng giềng ASEAN, trong đó có các quốc gia tiên tiến, giầu có, hùng mạnh, văn minh, là đối tác chiến lược toàn diện, hợp tác toàn diện của nước ta, đang thực hiện.

Nguyễn Đình Bin

80 tuổi đời, 62 tuổi Đảng. nguyên Thứ trưởng thường trực Bộ Ngoại giao; Chủ nhiệm Ủy ban về Người Việt Nam ở nước ngoài; Phó Bí thư Đảng ủy Khối đối ngoại TƯ (trực thuộc Ban Bí thư TƯ Đảng); một trong 10 người được phong hàm Đại sứ Đặc mệnh Toàn quyền nước CHXHCNVN đợt đầu tiên; Đại sứ tại Nicaragua, kiêm nhiệm Ecuador và tại Pháp, kiêm nhiệm Bồ Đào Nha./.

1)- Sắp tròn nửa thế kỷ rồi (30/4/1975 – 30/4/2024)!

- Thống nhất Tổ quốc.

Chủ Nhật, 17 tháng 3, 2024

CÁI GIÁ CỦA ĐỘC LẬP DÂN TỘC…!

 


Theo thống kê sơ bộ, cả nước có tổng cộng:

+ 1.146.250 liệt sĩ

+ Trong đó 191.605 người hy sinh trong kháng chiến chống Pháp

+ 849.018 người hy sinh trong kháng chiến chống Mỹ,

+ và 105.627 người nằm xuống trong các chiến dịch khác bảo vệ Tổ quốc (như chiến tranh biên giới Tây Nam, chiến tranh biên giới phía Bắc, cuộc chiến bảo vệ chủ quyền biển đảo…).

Ngoài ra, đến hiện nay còn:

- Hơn 200.000 hài cốt liệt sĩ vẫn chưa được tìm thấy trên các chiến trường Việt Nam, Lào, Campuchia...

- Cả nước có gần 800.000 thương binh và người được hưởng chính sách thương binh.

- Hơn 300.000 hài cố.t liệt sĩ chưa xác định được danh tính, tên tuổi, quê quán, đơn vị.

- Hơn 300.000 người hoạt động kháng chiến và có con đẻ bị nhiễm chất độc da cam dioxin.

- Gần 800.000 thương binh và người hưởng chính sách thương binh trên cả nước.

Quảng Nam là tỉnh có nhiều liệt sĩ thứ hai (sau Hà Nội) với 65.000 người hy sinh trong các cuộc chiến. Ngoài ra tỉnh Quảng Nam còn có hơn 30.000 thương binh.

Huyện có nhiều liệt sĩ nhất cả nước là huyện Điện Bàn (cũng tỉnh Quảng Nam) với hơn 19.800 liệt sĩ.

Quảng Nam cũng là tỉnh có nhiều Bà mẹ VNAH nhất với 11.658 mẹ…!

St

Thứ Tư, 13 tháng 3, 2024

Đề Thám – Người anh hùng hay thằng giặc ?

Mathilde Tuyết Trần



Trong Chương XV – Việc Đánh Dẹp ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ – của quyển Cận Kim Thời Đại trong bộ Việt Nam Sử Lược, Trần Trọng Kim chỉ ghi lại vẻn vẹn trong một dòng về Đề Thám như sau:

Đề Kiều và Lương tam Kỳ ra thú được ở yên. Cai Kinh bị bắt, Đốc Ngữ ra thú, Hoàng hoa Thám ở Yên-thế cũng ra thú, được giữ ở vùng ấy, mãi đến năm 1909 mới bị đánh đuổi, đến năm 1912 mới bị giết….Quan quyền Tổng-đốc Hải-dương là Hoàng Cao Khải đi đánh dẹp có công, về được chính-phủ bảo-hộ cho lãnh chức Bắc-kỳ Kinh-lược-sứ.”

Theo lời giới thiệu trên báo chí Việt Nam, Claude Gendre là cháu nội của Jean Gendre, một người lính trong quân đội viễn chinh Pháp đã từng chiến đấu ở Việt Nam cùng thời với giai đoạn Đề Thám. Trên đường đi tìm lại kỷ niệm của ông nội, Claude Gendre đã “vấp” phải nhân vật lịch sử Đề Thám, làm cho ông say mê tìm tòi, rồi viết thành sách. 

Trong khi chờ đợi cuốn sách ” Le Dê Thám -1858-1913– Un résistant vietnamien à la colonisation francaise ” của tác giả Claude Gendre xuất bản vào giữa tháng tư năm 2007 tại nhà xuất bản L‘Harmattan (1), với lời tựa của ông Charles Fourniau, giá bán là 19,50 euros, đã được đặt mua tại một tiệm bán sách của một thành phố nhỏ, tôi lục lọi trong tủ sách nhà, moi ra được vài tài liệu có liên quan đến Đề Thám, mà tôi chưa có dịp sử dụng.

Cũng may thay, tôi có dịp được trao đổi trực tiếp với Claude Gendre, chính ông đã có nhã ý gọi điện thoại cho tôi, nên khi viết bài này, trong đầu tôi đã có ý thiên vị tác giả. 

Ông cho tôi biết, Jean Gendre, nếu không bị thương và được chuyển về Pháp, có lẽ đã ở lại suốt đời tại Việt Nam. Ý thích của ông nội, vừa thích con người, vừa yêu mến cảnh, thích từ tiếng nói cho đến bữa ăn hàng ngày của Việt Nam, đã gây ấn tượng và gợi trí tò mò cho người cháu. Đến lượt Claude Gendre, sau khi đã qua thăm Việt Nam mấy lần, ông cũng nói với tôi rằng: “Comme mon grand‘père, je suis tombé amoureux du Viet Nam” (Giống như ông nội tôi, tôi đâm ra yêu mến Việt Nam). 

Claude Gendre không có vẻ bài bác ý định tôi dịch cuốn sách của ông ra tiếng Việt, nhưng trong khi chưa có quyết định cụ thể, vì phải tôn trọng luật lệ bản quyền của tác giả và nhà xuất bản, cho nên trong phạm vi bài bình luận này, tôi không được phép trích hay dịch nguyên văn của Claude Gendre viết trong sách. 

Cảm giác về thời đại Đề Thám 

Thứ Hai, 11 tháng 3, 2024

Số đặc biệt 10 năm Văn Việt: Những kỷ niệm thời trước Văn Việt

Thụy Khuê



Năm 2014, anh Nguyên Ngọc sang Pháp, đến thăm và rủ tôi viết cho Văn Việt, dĩ nhiên tôi nhận lời. Nhưng trước hay sau đó, anh Hoàng Hưng cũng đã gửi email và tôi cũng ưng thuận ngay. Đây là tờ báo mạng mà chúng tôi chờ đợi: dựng ở trong nước, in bài cả trong lẫn ngoài nước, không bè phái, không tiêu chuẩn, trừ sự đúng đắn và trung thực.

Tuy nhiên đầu mối thân tình của tôi với hai nhân vật chính tạo nên Văn Việt đã có từ hơn ba mươi năm trước. Mấy dòng viết nhanh tại Vũng Tàu hôm nay, để hồi tưởng lại chút kỷ niệm xưa, mặc dầu trí nhớ đã bắt đầu suy tàn, như lời Nguyễn Bình Phương.

Tôi "quen" anh Nguyên Ngọc kể từ khi anh xúc tiến việc Đổi mới [*] trên tuần báo Văn Nghệ, đăng những bài tiểu luận sắc bén đòi hỏi tự do tư tưởng của Nguyễn Minh Châu, Nguyên Ngọc, Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Khắc Viện... và những sáng tác mới của Nguyễn Huy Thiệp, Dương Thu Hương, Phạm Thị Hoài... đó là những tên tuổi đầu tiên, đã khiến những người làm văn học ở ngoài nước, như chúng tôi, sửng sốt, khâm phục.

Và cũng từ đó chúng tôi "kết bạn" với các nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình, chưa bao giờ gặp gỡ, nhưng đã rất thân, qua chữ nghiã. Chúng tôi đã "hòa hợp hòa giải dân tộc" không thông qua bất cứ một kênh thúc đẩy hay một cầu nối nào.

Sự tình bắt đầu như thế, từ hơn ba mươi năm nay.

Mùa thu năm 1993, tôi về Việt Nam, sau sáu năm cầm bút, ba năm phụ trách chương trình văn học nghệ thuật hàng tuần của đài RFI; lần đầu tiên gặp Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Văn Cao, Hoàng Cầm, Đỗ Đức Hiểu, Hoàng Ngọc Hiến... ở ngoài Bắc; Hoàng Hưng, Lữ Phương, Nguyễn Đăng Mạnh... ở trong Nam, từ đó sợi dây truyền cảm giữa chúng tôi chưa bao giờ phai lạt.

Người gây cho tôi cảm giác lạ thường là anh Trần Độ. Hôm ấy hai anh Lại Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn dẫn tôi đến buổi họp mặt nhân dịp giỗ Lưu Quang Vũ và Xuân Quỳnh, có anh Trần Độ tham dự. Trong lúc không ngờ nhất, anh sai một người đặt vào tay tôi tấm thiệp nhỏ ghi địa chỉ anh, nếu tôi nhớ không lầm, ở phố Trần Hưng Đạo, trong có hàng chữ viết tay: Cô đến anh sáng mai, ... giờ. Tôi đến gặp người anh hùng như tôi thầm nghĩ, vóc cao, vai rộng, giọng đầy quyền uy. Bên cạnh Tướng quân có một vị chừng như "bảo vệ", mặt âm u. Trần Độ phớt lờ như không, thủng thẳng nói những điều hệt như anh viết: Ta cần phải đổi mới tư duy, chính sách xã hội phải coi con người là mục tiêu chứ không phải là công cụ của cách mạng... Cuối cùng anh bảo tôi: Cô và các bạn ở hải ngoại có thể tiếp sức với trong nước thực hiện những điểm anh vừa đề xuất...

Nguyên Ngọc bị cách chức tháng 12 năm 1988. Trần Độ bị cách chức tháng 6 năm 1989.

Thứ Tư, 28 tháng 2, 2024

Vài lời trao đổi với PGS-TS Nguyễn Anh Tuấn

 Nguyễn Đình Cống

Vừa qua tôi đọc được bài của PGS.TS. Nguyễn Anh Tuấn, có đầu đề “Sự phát triển của kinh tế Việt Nam và nhiệm vụ của giáo dục-đào tạo”. Kèm theo đầu bài có tiêu đề “Hội thảo Quốc tế - Đóng góp của Khoa học xã hội nhân văn trong phát triển kinh tế xã hội” (1).

Nhận thấy vấn đề được quan tâm là đúng, hay, có tính thời sự  nên tôi đã xem đi, xem lại vài lần. Bài gồm 4 mục

1. Tình hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam những năm qua.

2. Những thách thức đối với tăng trưởng  kinh tế Việt Nam.

3. Mô hình tăng trưởng và vấn đề phát triển nguồn nhân lực.

4. Thực trạng giáo dục Việt nam và nhiệm vụ.

Khi chỉ mới xem qua một lần thì thấy bài viết  đã nêu ra được thực trạng của nền kinh tế và giáo đục, đề ra được những việc cần quan tâm. Tuy nhiên, khi đọc và phân tích kỹ  mới thấy lộ ra một số ý kiến cần trao đổi với những người có trách nhiệm hoặc quan tâm (trước hết là với TS. Tuấn),  hy vọng có được cách nhìn và đặt ra nhiệm vụ đúng.

Thứ nhất là sự “Đổi mới”. 

Năm 1986, dùng từ đổi mới để nói lên tinh thần ci cách của lãnh đạo Đảng là phù hợp, chấp nhận được. Nhưng đến bây giờ, đã đến lúc cần gọi đúng bản chất của sự kiện là sửa sai. Gọi theo hai cách là nhằm hai mục đích khác nhau. Mà cách gọi chệch chỉ nên xem là tạm thời, còn về lâu dài cần phải gọi đúng bản chất thì mới có cách phát triển chinh xác. Lãnh đạo Đảng, vì lý do nào đó chưa dám công nhận “sửa sai”, nhưng một người trí thức như PGS. Tuấn mà vẫn cố tình dùng sai khái niệm thì thật đáng tiếc.