Nguyễn Thanh Giang
11-8-2016
Bìa sách “Quỷ Vương” của
nhà văn Vũ Ngọc Tiến.
Nhà văn Vũ Ngọc Tiến vốn là đồng nghiệp của tôi, được tôi đánh
giá là một trong những nhà Địa Vật lý hậu sinh khả úy và bị tôi cằn nhằn chê
trách là dại dột, nông nổi khi có ý định bỏ cái nghề vinh quang thiết thực làm
giầu tổ quốc tấp tểnh cầm bút đi làm báo, làm văn mà tôi đã từng cảnh cáo anh
“lập thân tối hạ thị văn chương”.
Như chột dạ, bẵng đi rất lâu anh không hề thăm thú hỏi han gì
tôi. Cho đến khi đọc được hàng loạt bài viết của tôi trên các trang mạng anh
mới cho rằng tôi đã “nói vậy mà không phải vậy”. Anh mời tôi đến nhà đàm đạo,
rủ tôi đi cà phê và liên tục gửi tặng tôi không chỉ hàng tập bài báo mà nhiều
tập sách của anh. Trên giá sách của tôi hầu như đầy đủ cả: “Cố nhân”. “Mười hai
con giáp”, “Tội ác và sám hối”, “Khói mây Yên tử” … Vì đinh ninh rằng đây chẳng
qua cũng chỉ là thứ văn chương phải đạo nên do quá bận bịu với nghị luận, chính
luận, tôi đành tạm thời đắp chiếu sách của Vũ Ngọc Tiến. Nhận được thư mời dự
lễ ra mắt tiểu thuyết “Quỷ vương” tôi cũng không rạo rực ưu tiên sắp xếp thời
giờ đến dự. Tuy nhiên, khi biết tin buổi lễ này bị Đảng cấm đoán thì tôi đành
gác lại mấy việc cần cho việc kỷ niệm Mười năm ra đời tập san “Tổ Quốc” của tôi
vào ngày 15 tháng Chín tới để dọc cuốn tiểu thuyết long trọng này, xem ví sao
Đảng sợ nó.
“Quỷ vương” do Nhà Xuất bản Hội Nhà Văn xuất bản năm 2016 là
tiểu thuyết lịch sử đồng hiện, trong đó các nhân vật lịch sử, các vấn đề chính
trị, xã hội, thời sự … trong thời Lê mạt và trong “Vương quốc Bill-Kell” ở tỉnh
K thời nay hiện hình đồng thời, đan quyện vào nhau, hóa thân vào nhau, chứng
giám cho nhau.
Thông qua nhân vật một thiền sư, Vũ Ngọc Tiến muốn hướng người
đọc tới kiếp luân hồi theo luật nhân quả: “Thiền sư Kiến Phúc trụ trì chùa Sùng
Miên trong một lần tọa thiền khai mở luân xa đã nhìn thấy nàng Lệ Thanh (thời
Lê mạt) có khuôn mặt giống hệt Thùy Dung (ở vương quốc Bil-Kell); còn chàng nho
sinh Bùi Trụ giống Hiếu Dân như đúc. Thầy Kiến Phúc quả quyết rằng đã nghe rõ
thông điệp từ quá vãng mách bảo, hai người là kiếp luân sinh của họ” (trang 17-
18). Chu kỳ luân hồi xuất hiện vào 30 năm cuối thế kỷ 15, đầu thế kỷ 16 (1497-
1527): “Cuối thời Lê sơ đạo đức xã hội suy vi, kỷ cương triều đình mục nát đến
thối rữa nên ngồi trên ngai vàng là một thứ “Quỷ Vương”, quan chức trong triều
nhung nhúc loại quỷ”.
“Quỷ Vương” (Uy Mục) – kẻ đã bắt giam tra tấn cực hình đến chết
toàn bộ gia quyến chú ruột, đánh anh đập em, thậm chí giết cả bà nội bằng thuốc
độc, đốt cung Trường Lạc…; kẻ mắc chứng bạo dâm, mỗi lần phá trinh một phi tần
hay cung nữ vua đều nghĩ ra những trò quỷ quái để hành hạ người đẹp trước khi
ân ái… (trang 43). Rồi Trư Vương (Tương Dực), kẻ dâm loạn với hết lượt phi tần
của các đời vua trước; kẻ giết hại 15 vị vương công không cần xử án; kẻ nghĩ ra
nhiều trò tiêu khiển điên rồ quái ác; kẻ sai Vũ Như Tô xây cung điện 100 nóc,
xây cửu trùng đài nguy nga tráng lệ… trong lúc ngân khố nước nhà cạn kiệt, dân
chúng đói khổ, lầm than”… Phải chăng “Vương quốc Bil-Kell” là từ Lê mạt hồi sin
và nhung nhúc những “Quỷ vương” xưa cũng đang tái sinh? Đủ loại: “quỷ vương”, “
trư vương”, “thử vương” … đã từng xuất hiện, và vẫn đang hoành hành. Nhưng sao
chưa thấy tác giả điểm danh “Lú vương” trong khi hắn đang lù lù chễm chệ đấy
kia.
Hắn lú đến mức giặc đã xâm lấn lãnh thổ, lãnh hải, quần thần đã
xôn xao nhắc nhở vẫn gạt đi “Biển Đông không có gì mới”.
Lú và khốn nạn đến mức ký tuyên bố chung chính thức với vua giặc
mời cảnh sát giặc sang chuẩn bị tắm máu đồng bào mình, để “ổn định xã hội”;
chuẩn bị diệt “phe X”, để giữ vững ngai vàng.
Lú đến mức bay sang tận trời Tây để tụng ca một thứ chủ nghĩa đã
bị nhân loại vứt vào sọt rác. Bị xua đuổi không xấu hổ, không biết nhục, vẫn
khoác lác, hợm hĩnh “Mình có thế nào thì người ta mới mời chứ!”.
Vũ Ngọc Tiến thì dị ứng với cái thứ chủ nghĩa mà “Lú vương” tụng
ca đến mức dày công nghiền ngẫm truy tìm tông tích nó để rồi thấy oán trách cả
người anh hùng dân tộc Lê Lợi. “Năm xưa vua Trần Nhân Tông sau khi đánh thắng
giặc Nguyên – Mông, bỗng day dứt trong lòng về một thế giới bất an, Ngài đã vứt
bỏ ngai vàng, lên núi Yên Tử sáng lập ra Đạo Phật đặc sắc riêng của Việt Nam
trên nền tảng tư tưởng tam giáo đồng nguyên. Hệ tư tưởng ấy là quốc bảo, là di
sản văn hóa phi vật thể vô giá, nhưng nhà Lê, khởi đầu là vua Lê Thái Tổ, đặc
biệt là Lê Thánh Tông đã phũ phàng vứt bỏ” (trang 226).
“Xét cho cùng mọi sự suy đồi tuột dốc không phanh của các triều
đại vua trong ba mươi năm kể từ khi vua Lê Thanh Tông chết (1497 – 1527) … có
thể gói gọn trong mấy chữ: “mất đạo trước, mất nước sau, ngai vàng quyền lực
còn đâu”. Tuy nhiên, muốn truy tìm tận gốc của sự mất đạo ta lại phải xét trong
tổng thể 100 năm thời Lê sơ, bắt đầu từ Lê Lợi, vị anh hùng dân tộc có công
đánh đuổi giặc Minh, cứu đất nước khỏi nạn đồng hóa và nguy cơ Bắc thuộc lần
thứ hai. Con người vĩ đại ấy khi lên ngôi vua đã phạm phải nhiều sai lầm… ông
đã thẳng tay vứt bỏ hệ tư tưởng tam giáo đồng nguyên của thời Lý – Trần, rước
về một thứ Đạo Nho làm hệ tư tưởng độc tôn trong xã hội … Điều tệ hại nữa, đó
là thứ Đạo Nho không còn giữ được những nét tinh túy khởi thủy thời Tiên Tần”
(Trang 210 -211). Đạo Nho chính là môi trường sinh thái thích hợp cho chủ nghĩa
Cộng sản ươm mầm và phát triển. Trớ trêu sao, xưa vua quan thời Lê mạt hành đạo
một thứ Đạo Nho không còn giữ được những nét tinh túy khởi thủy thời Tiên Tần
thì về sau những người Cộng sản Việt Nam cũng không quán triệt Mác mà chủ yếu
làm đồ đệ trung thành của Lênin, Stalin, Mao Trạch Đông.
Từ Khổng giáo suy vi đến Mac-xit biến tướng, Việt Nam ngày càng
chìm sâu trong độc tài, độc tôn, toàn trị. Chính vì thế “Lú vương” ngày nay trở
nên nguy hại, kinh tởm hơn “Quỷ vương”. Trong bài viết “Kẻ trói tay nạp mạng
dân tộc mình cho Đại Hán” tôi đã chứng minh tên “Lú vương” ngày nay còn tệ hại
hơn, đáng khinh ghét hơn Lê Chiêu Thống: “Lê Chiêu Thống đã từng bị nguyền rủa
trong lịch sử Việt Nam vì tội rước voi dày mả tổ, nhưng sau những năm tháng lưu
lạc xứ người, khi chết, ông vua này vẫn có nguyện vọng thi thể mình được trở về
cố quốc, bọn Lê Chiêu Thống hiện đại hình như đang khẩn trương đưa Việt Nam vào
lãnh địa Trung Quốc để dẫu chết vẫn được cùng mẫu quốc tôn thờ “đại cục”, vẫn
được “Định hướng Xã hội chủ nghĩa!”.
Nhà văn Lê Mai đồng ý với nhà văn Nhật Tuấn nhận xét: “Trên
bãi cứt của nghệ thuật đương đại, tiểu thuyết “Quỷ vương” của nhà văn Vũ Ngọc
Tiến mọc lên như một loài kỳ hoa dị thảo”.
Nhà thơ Trần Mạnh Hảo coi đây là kính chiếu yêu giúp ta
soi thấy bóng dáng lũ vua quỷ, quan quỷ thời hiện đại mà vẫn sống động, hấp
dẫn, có tính tư tưởng. Nó là một tác phẩm đậm chất chính trị- thời sự có tính
phúng dụ cao.
Nhà văn Nguyễn Khôi, nguyên Chuyên viên cao cấp, Phó Vụ trưởng
VPQH thì bình luận: “Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam xưa nay chưa có tác phẩm
nào sánh với “Tứ đại danh tác” của Trung Quốc. (Tam quốc diễn nghĩa, Thủy hử,
Tây du ký, Hồng lâu mộng). Trước năm 1945 có 2 cuốn đáng đọc: “Hoàng Lê nhất
thống chí” viết theo lối tiểu thuyết chương hồi (Kiểu tiểu thuyết “Chí” của
Trung Hoa). Gọi là thứ “cây nhà lá vườn” thì phải đọc chứ đọc hẳn “Đại Việt
thông sử” của Lê Quý Đôn có khi còn thích hơn!… Cuốn “Tiêu sơn tráng sĩ” của
Khái Hưng viết theo lối tiểu thuyết hiện đại đầu thế kỷ 20 lãng mạn, thi vị hóa
mối tình Phạm Thái với nàng Trương Quỳnh đọc khá cuốn hút. Có thể nói sau
hai tác phẩm nói trên, cuốn “Quỷ Vương” của Vũ Ngọc Tiến được tạm xếp sánh
ngang tầm bởi có đậm chất sử, lóng lánh chất văn chương, có tính thời sự cấp
báo”.
Tôi viết bài này để xin lỗi Vũ Ngọc Tiến. Suýt nữa thì tôi đã vô
tình vùi dập một tài năng. Nếu Vũ Ngọc Tiến nghe lời tôi ở lại làm Địa Vật lý
thì dẫu anh có thực sự góp phần tìm được một vùng mỏ lớn nào đó thì cũng không
sánh bằng sự nghiệp văn chương của anh. Riêng tiểu thuyết “Quỷ vương” cũng đã
là một sản phẩm tinh thần mang tầm tư tưởng cao trong kho tàng văn học nước
nhà.
Hà Nội, ngày 10 tháng 8
năm 2016
Nguyễn Thanh Giang
Số nhà 5 ngõ 341 đường
Trung Văn – Hà Nội
Mobi: 0984 724 165
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét