Thứ Hai, 4 tháng 1, 2021

NGƯỜI VIỆT KHÔNG BIẾT YÊU

 

NGƯỜI VIT KHÔNG BIT YÊU

Thái Ho -Thái Ho03-01-2021

(Viết v nhng gic mơ trong lch s tâm hn Vit và căn tính dân tc)

[Mi khi nghĩ v s trì tr, tù đọng và bao nhiêu nim vui hi ht ngu ngc đang din gia s đe da và sa đọa hàng ngày trên đất nước này, tôi li c đi tìm nguyên nhân trong tính tình ca nòi ging. Định viết mt cái gì đó để thôi thúc, nhưng li gp li cái điu mình đã nghĩ năm trước...]

------------

1. Người Vit đã tng mơ

Gic mơ rõ ràng nht, ln nht ca người Vit có lđộc lp. Nhưng là cái độc lp v cương vc mà thôi. Đó là cái “định phn ti thiên thư”, là cái “núi sông b cõi đã chia”. Và vì gic mơ y mà người Vit đã đổ máu c ngàn năm để gi nước trước k láng ging to ln và nhiu dã tâm. Gic mơ y đã khiến bc anh hùng “đêm ngày cun cun nước triu đông”, “ti ba quên ăn, na đêm v gi, rut đau như ct, nước mt đầm đìa”; gic mơ y đã vút lên li nguyn “du cho trăm thân này phơi ngoài ni c, nghìn xác này gói trong da nga, ta cũng cam lòng”; vì gic mơ y mà quyết “Đánh cho Nam quc s tri anh hùng chi hu ch”. Đó là mt gic mơ ln đáng gi gìn và ngi ca cho công nghip ngàn năm ca tin nhân.

Nhưng dường như người Vit gii chng hơn xây. Người Vit thường ng phó khá lanh l trước nhng biến c, thường đối phó khá hiu qu trước tai ương. Chúng ta đánh gic gii, phá gic hay, đến quân Nguyên Mông mà còn đại bi, “nhc quân thù khôn ra ni”. Dường như nhng “tinh hoa” ca người Vit đã dn c vào cái vic “đối phó” này, cho nên sau mi chiến thng, khi các triu đại mi được dng lên thì đất nước thường rơi vào khng hong. Và lun qun mt hi li sang triu cng phương Bc. Li vn mô hình nhà nước phương Bc, li vn ch phương Bc, li vn dy tr nh ê a “T viết...”, li vn t thư ngũ kinh. Người Vit dường như không biết “xây” (?), nếu ch tính t 1975, thì cũng đã 45 năm, vi bao nhiêu “tm nhìn” và nhng cái đích sáng lòa, nhưng dường như VN chưa bao gi chm ti chúng. Tt c đều đã “l thì”. “Thiên đường” vn ch là 2 ch được viết trên giy để tương phn vi mt thc tế nhàu nát đến chói gt. Dường như sut các thế k trung đại cho ti bây gi, VN chưa bao gi thoát khi áp lc c v chính tr ln văn hóa ca Trung Quc. Đó là mt tht bi ln. Nói nói cách khác là người Vit không có gic mơ t cường, gic mơ kiến to. Mng thì có th có, nhưng “mơ” như là mt lý tưởng thì dường như không phi! Đến bây gi, khi nhng xung đột vi Bc Kinh càng ln và “ra mt” thì nhiu người Vit li mơ v M như mơ v mt s bo kê. Đó ch nên là mt gii pháp tình thế, nếu không t cường thì ch mãi là mt nô l. Đài Loan bé nh, và yếu c v mt pháp lý, nhưng Đài Loan khác VN ch h tìm ch da trong mình trước nht, và s luôn là như thế. Mt dân tc da dm là mt dân tc tr con.

Điu y rt gn vi 1 gic mơ xuyên sut lch s, gic mơ “thái bình”. Đó là cái s “x x tc đao binh”, là “dân giàu đủ khp đòi phương”, là “khp thôn cùng xóm vng không còn 1 tiếng hn gin oán su”. Nó có ni hàm là s “yên n”, là “thnh tr”, là “đời thái bình ca thường b ng”. Nó hướng đến mt đời sng phng lng, cơm no áo m. Ông Khng T nói “nuôi được cha m chưa phi là hiếu, vì đến chó nga cũng nuôi được, nếu không có Kính thì gia nuôi chó nga vi nuôi cha m có khác gì nhau”. Cái mơ ước “no đủ, yên n” kia, e ra chưa đạt ti ch cn đạt để xng đáng vi s làm người thiêng liêng và cao c. Gic mơ y phi chăng chưa xng vi địa v làm người?

Người Vit (trí thc) còn có 1 gic mơ na, rt đin hình cho nhà Nho – gic mơ công danh. Người Vit trng danh (tiếng), nhưng thường là gn vi “chc” nhiu hơn vi “công”. Cái s theo đui này đã sut t thi phong kiến ti gi, vn chưa nguôi. Công danh thì ít mà chc danh thì nhiu; công nghip thì ít, tư nghip thì nhiu; chính danh thì ít ngy danh thì nhiu; thc danh thì ít hư danh thì nhiu... Cái s theo đui danh vng này dường như ngày nay càng n r, tính háo danh phô bày khp nơi. VN, d nht là danh nhà văn, nhà thơ, ri đến nhà nghiên cu – phê bình... Người ta ham mê danh ti độ mt cái chc trưởng thôn cũng phi dùng mánh khóe và tin bc để dành cho bng được. VN bây gi, người ta rt mê nhng cái “trưởng”...cho đến nhng cái “đốc”.

Nhiu chc, nhiu danh như thế nhưng đời sng chính tr và hc thut thì vô cùng m đạm. Các cuc tranh lun hc thut nghiêm túc dường như vng bóng, khoa hc dường như ch còn là mt món trang sc để người ta làm đẹp cho cái tên ca mình. Người ta s viết bài khen ln nhau, tôn nhau lên để được...tôn li. Khoa hc m đạm t Vin nghiên cu đến các trường đại hc – nơi được tôn xưng là “thánh đường ca tri thc”. S r rúng đối vi tri thc đã ti mc dường như người ta không bun tranh lun v tính chân xác ca nó na. Qua loa đại khái, “chc, k!”, đó là tinh thn ca cái danh Khoa hc VN bây gi.

Nhân quyền Việt Nam: 72 người bị bắt và kết án năm 2020

 

Người Việt

SÀI GÒN, Việt Nam (NV) – Trong năm 2020, có ít nhất 72 người đã bị bắt giữ hoặc bị kết án theo luật Hình Sự 2015, Facebooker Người Đà Lạt Xưa tổng kết.

Trong một lần trao đổi với nhật báo Người Việt những ngày đầu năm 2021, Facebooker “Người Đà Lạt Xưa” cho hay thành tích nhân quyền tồi tệ của chế độ Hà Nội qua con số nêu trên là kết quả thu thập của một số người theo dõi sát tình hình đàn áp nhân quyền tại Việt Nam.



Nhà thơ Trần Đức Thạch bị CSVN kết án 12 năm tù ngày 15 Tháng Mười Hai, 2020. (Hình: VNA/AFP/Getty Images)

Một số người bị bắt những năm trước hoặc năm 2020 bị đem ra tòa kết án, một số người bị bắt trong năm 2020 hãy còn bị giam giữ và chưa có án. Ba thành viên chủ chốt của Hội Nhà Báo Độc Lập sẽ bị đưa ra tòa án ở Sài Gòn ngày 5 Tháng Giêng này để áp đặc lên đầu họ những bản án khó tránh khỏi nặng nề trước khi CSVN mở đại hội đảng loan báo đám lãnh tụ chóp bu khóa mới.

Cái thành tích nhân quyền tồi tệ đó, theo Facebooker Người Đà Lạt Xưa “đã khiến cho cái vực thẳm ngăn cách giữa nhà nước và người dân ngày càng lớn hơn.” Đa số người bị bắt và kết án tù bị quy chụp theo các điều khoản mơ hồ của Luật Hình Sự CSVN ban hành năm 2015 như điều 109 “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền”; điều 117 “làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống nhà nước”; điều 331 “lợi dụng các quyền tự do dân chủ…”

Ngay từ những ngày đầu năm 2020, CSVN đã xua hàng ngàn Công An, Cảnh Sát Cơ Ðộng “võ trang tận răng” tấn công vào xã Đồng Tâm, giết cụ Lê Đình Kình, bắt đi một số người dân chống đối vụ giải tỏa cưỡng chế đất tại cánh đồng Sênh. Phiên tòa ngày 14 Tháng Chín, 2020 đã kết án tử hình hai con trai cụ Kình bên cạnh các án tù cho những người khác.

Theo bản tổng kê của Người Đà Lạt Xưa, cùng ngày 9 Tháng Giêng, 2020 tấn công vào xã Đồng Tâm huyện Mỹ Đức, Hà Nội, ông Đinh Văn Phú, sinh năm 1973, trú thôn 2, xã Đắk Wer, huyện Đắk R’lấp, tỉnh Đắk Nông, bị bắt giữ và bị buộc tội theo Điều 117 vì đã sử dụng các tài khoản Facebook “Jimy Nguyễn,” “Vinh Nguyễn Jimy” và “Nguyễn Vinh” để đăng tải các bài viết và phát trực tiếp các bài viết chống nhà nước.

LÀNG TÔI NGÀY ẤY ( Tản văn của Trần Quý Lộc ) : kỲ III


LÀNG TÔI NGÀY ẤY ( Tản văn của Trần Quý Lộc ) : kỲ III

( Kỳ III, Từ trang 47 đến   trang 56 )

 Xem kỳ II :   http://thpttohieusonla.blogspot.com/2021/01/lang-toi-ngay-ay-tan-van-cua-tran-quy_2.html

 


 

Phần hai - CHUYỆN CƯỜI.

 

1.Chuyện cái mấn thâm

Ngày xưa, những người phụ nữ quê tôi đều mặc mấn thâm, dânmiền Bắc gọi là cái váy đụp. Họ nghèo, mỗi người chỉ có được một chiếc mấn mới, dùng vào những ngày trọng đại.

Có người mẹ trẻ, quanh năm mặc mấn thâm cũ, bạc thếch. Nhân ngày mai tiễn con gái đầu lòng về nhà chồng, người mẹ đó đem chiếc mấn mới ra mặc, cầm chổi quét sân, làm thay cái việc hàng ngày của con gái.

Chàng rễ đến nhà người yêu, khi trời đang chập choạng tối, nhìn người mẹ tưởng nhầm là người yêu mình. Chàng rón rén, đi từ phía sau, tạo vẻ bất ngờ, đưa hay tay ôm gọn lưng mẹ vợ, kéo vào lòng mình, khoe:

Ngày mai tui cho 3 phát.

Người mẹ biết chàng rể nhầm mình là người yêu của chàng. Tuyđược con rể trẻ ôm cũng thích, nhưng là mẹ vợ tương lai, người mẹ tương lai đó, chỉ còn biết giả làm mặt giận, cảnh cáo chàng rể:

Mi nói, ngày mai cho tau ba phát, là ba phát ra răng.

Trời ạ. Mẹ vợ tương lai, không phải người yêu, chàng rể biết mìnhđã bị nhầm to bèn cười chống chế, chữa thẹn:

Tui nói, cho u 3 phát là ra ri. Tui đã mua được 3 quả pháo đùng,ngày mai đem đây đốt cho u nghe.

Người mẹ vợ tương lai cười, khen thầm chàng rể tương lai thông minh, vụng chèo nhưng khéo chống. “Con mấn thâm, mẹ cũng mấn thâm, cho nên thằng rể mới nhận nhầm mụ gia”.

 2. Chuyện thằng hôm qua

Một tối nọ, tại gia đình có hai vợ chồng trẻ, anh chồng nghếch chânlên ghế hút thuốc lào, chị vợ ngồi cạnh chồng khâu vá. Trong nhà họ, có thằng trộm, ngày hôm qua đã đến rình từ chập choạng tối, nhưng chưa trộm được gì. Hôm nay, hắn lại vào rình, chờ thời cơ ăn trộm. Bỗng hắn nghe người vợ nói nhỏ với chồng: “Ênh ơi, thằng hôm qua kìa”.

Sau khi nghe tiếng người vợ nói khẽ với chồng, tên trộm chột dạ, tưởng mình đã bị lộ, vội vàng bỏ chỗ nấp, chạy vụt ra khỏi nhà. Người chồng thấy có người đàn ông, từ trong nhà mình chạy ra, nghi đó là tình nhân của vợ, bèn túm tóc vợ, trợn mắt, quát:

 -Thằng mô?

Chị vợ cũng rất ngạc nhiên, khi biết có người đàn ông từ trong nhàmình chạy ra, chị thanh minh với chồng:

Tui mần răng biết được có người núp trong nhà mình.

Người chồng ngạc nhiên hỏi lại vợ:

Mi đã nói “thằng hôm qua kìa”?

Người vợ biết chồng đã hiểu sai ý mình, bèn chỉ tay vào “của quí”của chồng, đang thò ra ngoài cái quần đùi của chồng, giải thích:

- Thằng hôm qua là thằng ni. Khi êng mặc quần cộc ngồi hút thuốc,chân nghễnh lên, đã để thằng ni lòi ra. Là tui muốn nhắc ênh khi ngồi phải có ý có tứ.

3. Chuyện “của quí” có mắt

Chủ Nhật, 3 tháng 1, 2021

4 vị Tướng cúi đầu bên giường một Trung tá

 

4 vị Tướng cúi đầu bên giường một Trung tá



Người nằm trên giường là Trung tá Đặng Văn Việt, Trung đoàn trưởng đầu tiên của Trung đoàn 174, một trong 3 trung đoàn chủ lực đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Ông từng được thực dân Pháp mệnh danh là “Hùm xám đường số 4” do thành tích chỉ huy đơn vị trong Chiến dịch Biên giới thu đông 1950, bắt sống cả hai chỉ huy binh đoàn Pháp là trung tá Marcel Lepage và Pierre Charton.

Hà Nội một ngày tháng 11 tiết trời trở lạnh, khu điều trị tích cực Bệnh viện Hữu nghị Việt – Xô nằm trên tầng 8 im ắng đến đáng sợ. Từ cửa thang máy đi ra bốn vị tướng quân đội, dẫn đầu là một người đàn ông rất lớn tuổi trong bộ quân phục bạc màu, đôi cầu vai đeo quân hàm trung tướng.

Vừa bước đi, vị trung tướng già dẫn đoàn vừa hỏi cô y tá:

– Cháu cho hỏi ông Việt lão thành cách mạng nằm ở phòng nào?

– Dạ ông ấy nằm ở phòng 810 ạ, ông là thế nào với ông ấy ạ?

– Ông là cấp dưới của ông ấy!

Người đàn ông lớn tuổi trả lời nhanh gọn dứt khoát. Cô y tá tròn mắt, ngỡ ngàng ngước lên nhìn thật kỹ vị tướng đã chạm 94 tuổi đang thoăn thoắt đi lại phía cửa phòng 810.

Bên chiếc giường phủ tấm ra trắng toát, một ông lão gầy guộc đang nằm lim dim ngủ.

Vị trung tướng già chậm rãi đi tới, đồi mồi khẽ đưa ra nắm lấy tay người đang nằm rồi cất giọng gọi:

– Anh Việt ơi, em là lính của anh đến thăm anh đây.

“Ông lão” suýt soát 100 tuổi đang nằm trên giường bệnh khẽ trở mình, mở đôi mắt già nua mờ đục ra nhìn hồi lâu rồi nói:

– Ai đấy? Ai đấy?

Một vị trung tướng khác trẻ hơn đứng bên cạnh trung tướng già vội cắt lời:

– Cháu Nguyễn Mạnh Đẩu ở Lục quân đây ạ. Đây là Trung tướng Nguyễn Quốc Thước, nguyên Tư lệnh Quân khu 4. Bên này là Thiếu tướng Tạ Quang Chính – con trai Bộ trưởng Tạ Quang Bửu, bên này nữa là Thiếu tướng Hồ Thủy – con gái anh Hồ Sỹ Ngận.

Trên giường bệnh, “ông lão” vừa dứt cơn ho, đưa tay ra nắm chặt tay vị trung tướng rồi khẽ mỉm cười. Ông không nói thành lời nhưng đôi môi run run, những tiếng thở cứ dồn dập thành đợt.

Vị trung tướng già tiếp tục nói:

– Anh Đặng Văn Việt ơi, hổ xám đường số 4 ơi, em Quốc Thước, lính của anh đây. Ngày nào anh làm trung đoàn trưởng, em mới còn là trung đội trưởng, thế mà giờ đã trăm tuổi cả rồi anh ơi…

Nói đoạn, ông đưa gói quà nhỏ đã chuẩn bị kỹ từ nhà cho người đang nằm trên giường bệnh. Căn phòng đầy chật nghĩa tình, những bệnh nhân già khác đang nằm đều ngẩng lên dõi theo câu chuyện, mấy cô y tá và anh bác sĩ trẻ ngơ ngẩn nghe.

Bốn vị tướng đứng vây quanh giường bệnh. “Ông lão” nằm trên giường dứt tiếng thở khò khè định nói gì đó mà không được. Ánh mắt ông tươi vui hơn hẳn ngày thường.

Vị trung tướng già cười rạng rỡ, nắm chặt tay người thủ trưởng rồi nói:

– Anh mau khỏe, hôm nào anh về bọn em qua thăm, uống rượu, kể chuyện Đường số 4, chuyện kéo cờ ở Kỳ đài Huế… Rồi anh còn đi đánh tennis, đi xe máy, khiêu vũ nữa chứ…

Ông lão nằm trên giường bệnh gật đầu nhẹ, khẽ mỉm cười.

Cô y tá trẻ quay sang hỏi tôi:

– Anh ơi, ông cụ chắc phải là thượng tướng, đại tướng đấy nhỉ?

Tôi nhìn cô một lát rồi trả lời:

– Không em ạ. Ông ấy cả đời chỉ đeo quân hàm trung tá. Nhưng ông ấy là một huyền thoại!

Cô y tá ngơ ngác hồi lâu rồi bất chợt đưa tay lên lau vội giọt nước mắt vừa lăn xuống má…

Chuyện quá lạ: Nghị quyết Quốc hội được giữ bí mật từ hồ sơ, dự thảo, thảo luận, thông qua … rồi được giải mật

Giải mật Nghị quyết đất quốc phòng kết hợp làm kinh tế

Pháp luật TPHCM

Thứ Sáu, ngày 25/12/2020 – 13:59

Văn phòng Quốc hội vừa giải mật Nghị quyết  mà Quốc hội thông qua tháng trước về gỡ vướng cho đất quốc phòng kết hợp làm kinh tế.

Quốc hội ở kỳ họp cuối năm 2020 đã họp kín, thảo luận, thông qua Nghị quyết 132/2020 với tên gọi đầy đủ là Nghị quyết thí điểm một số chính sách để tháo gỡ vướng mắc, tồn đọng trong quản lý, sử dụng đất quốc phòng, an ninh kết hợp với hoạt động lao động sản xuất, xây dựng kinh tế.

Mật và giải mật

Quốc hội vốn hoạt động theo nguyên tắc tập thể, công khai, nhưng vì tính nhạy cảm trong câu chuyện pháp lý này mà dự thảo Nghị quyết, vỏn vẹn 8 điều, cùng hồ sơ liên quan đều đóng dấu mật. Phải sau khi Quốc hội thông qua, hôm 17-11, Văn phòng Quốc hội mới tiến hành thủ tục giải mật, công bố toàn văn Nghị quyết.

Chứa đựng các quy phạm khác với Luật Đất đai, nên ngay Điều 1 Nghị quyết 132 tự giới hạn phạm vi điều chỉnh của mình. Theo đó, Nghị quyết này quy định thí điểm một số chính sách để tháo gỡ vướng mắc, tồn đọng trong quản lý, sử dụng đất quốc phòng, an ninh kết hợp với hoạt động lao động sản xuất, xây dựng kinh tế.

Các chính sách này gồm: Nguyên tắc, chế độ sử dụng đất; trách nhiệm, quyền, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan; việc xử lý dự án, hợp đồng đã thực hiện và việc sử dụng đất quốc phòng, an ninh của doanh nghiệp cổ phần hóa, thoái vốn.

Và ở điều khoản cuối cùng – điều khoản thi hành, giới hạn hiệu lực của Nghị quyết 132 quy định: Từ 1-2-2021 đến khi Luật Đất đai hiện hành được sửa đổi và có hiệu lực thay thế.

Rủi ro pháp lý

Khái niệm pháp lý “đất quốc phòng, an ninh” lần đầu tiên xuất hiện trong Luật Đất đai 1993. Ở thời điểm đấy, luật định một số trường hợp đất này có thể “kết hợp làm kinh tế”.

Tuy nhiên với ngay cả lúc ấy, lực lượng vũ trang vẫn không được khuyến khích tham gia các hoạt động kinh tế. Cho nên, dù chỉ là “kết hợp”, quá trình phát triển chính sách luôn theo hướng siết chặt dần. Đến Luật Đất đai 2003, trong quy định về quản lý đất quốc phòng, an ninh không còn cụm từ “kết hợp làm kinh tế” nữa.

Quá trình chuyển tiếp từ được sang không được “kết hợp làm kinh tế” về sau không diễn ra như mong muốn của nhà làm luật. Rất nhiều khu đất quốc phòng đã “kết hợp làm kinh tế” không được chuyển giao sang UBND các tỉnh để quản lý. Chưa kể, một diện tích không nhỏ khác được tiếp tục đưa vào thị trường. Căn cứ cho các hoạt động kinh tế ấy chỉ là thực tiễn sử dụng đất, và hai công văn 1231/2003 và 1869/2008 của Văn phòng Chính phủ thông báo ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng.

Phải đến khi Luật Đất đai được sửa đổi toàn diện năm 2013, có hiệu lực tháng 7-2014, tiếp tục khẳng định không có ngoại lệ “kết hợp làm kinh tế”, lãnh đạo Bộ Quốc phòng mới ra văn bản dừng tất cả việc chuyển, đưa đất đang do các đơn vị quân đội quản lý vào vòng quay thị trường.

Với diễn tiến chính sách nêu trên, có thể thấy 17 năm qua, rất nhiều dự án kinh tế có sử dụng đất quốc phòng đang đối mặt rủi ro pháp lý do nằm ngoài quy định của Luật Đất đai.

Tháo gỡ vướng mắc

Thứ Bảy, 2 tháng 1, 2021

LÀNG TÔI NGÀY ẤY - Tản văn của Trần Quý Lộc ( Kỳ II )

 



 ( Xem kỳ I : http://thpttohieusonla.blogspot.com/2020/12/lang-toi-ngay-ay-tan-van-cua-tran-quy.html)

LÀNG TÔI NGÀY Y - TN VĂN CA TRÀN QUÝ LC ( II )

                                    ( Tiếp theo “ Từ trang 24 đến trang 46 )

11. Rú rậm

Rú rậm nằm mé ngoài và độc lập với núi Thiên Nhẫn, có hình con rùa đang bò ra sông La. Rú Rậm dài khoảng 300m, rộng khoảng 100m, cao khoảng 30m, nơi vị trí mắt rùa là điện Kim qui.

Rú Rậm gồm toàn cây gỗ tái sinh, có nhiều loại cây, nhiều nhất là cây trai và cây bai bái... Những cây tái sinh này tạo tán lá che gần hết phần trống mặt đất. Dưới tán lá có nhiều loại cây thân bò và thân bụi cho quả như sim, mua, móc, rạng, vú bò, bông trang, khu đăn, khu lồ, khu gióng, lộng cộng, chua ngút, ngấy ngoài Bắc gọi là cây mâm xôi...

 Bọn trẻ chúng tôi gặp bất cứ loại quả của các cây nào nói trên là hái ăn, kể cả những loại quả không hề có một chút hương vị như quả lộng cộng, có vị chát đắng như quả mua hoặc có mùi hăng hắc như quả bai bái.

Đúng ra, chúng tôi phải loại quả bai bái ra khỏi thực đơn, ngoài phần có mùi hắc hắc, nếu ăn nhiều có cảm nhận hoa mắt và chảy nước miếng trong, như thế là quả bai bái có chất độc. Với bọn trẻ chúng tôi, chỉ khi ăn vào bị lăn quay đơ như gà toi, may ra mới có đứa sợ.

Mé bìa rừng là những bãi cỏ, có nhiều bụi duối mọc rãi rác, cứ có cành duối nào mọc được là bọn bò thè lưới xơi tái luôn. Ngoài cái thân duối to đùng ở phía trong, phía ngoài chỉ là những cành dăm, hết năm này sang năm khác chúng chỉ vẫn là những bụi duối.

Có nhiều loại quả gắn liền với tuổi thơ, tôi không bao giờ quên.

Quả khu gióng.

Khu gióng thuộc dạng thân dây, dẻo và cứng. Thân cây khu gióng được người dân cuộn thành nhiều vòng làm khu gióng, khu gióng là trôn đít của chiếc quang. Khu gióng ra quả quanh năm, cứ vài ba mắt lá có một chùm quả, một chùm có trên 15 quả nhỏ bằng đầu đũa, màu xanh. Khi quả chưa già, phần ruột của quả ăn như cơm nếp.

Quả vú bò.

Cây vú bò thân gỗ leo, quả như những chiếc vú bò màu tím đen, một chùm chỉ có vài ba quả, ăn như nho Mỹ. Có thể vú bò là một loại nho rừng.

Quả duối.

Vào mùa hè, duối nở hoa và cho quả. Quả duối chín có lớp thịt mọng nước màu vàng, bao bọc quanh một chiếc hạt duối. Quả duối chín hàng ngày, nếu không có người hái, chỉ sau 3 ngày sẽ có cả một cây duối vàng rực quả chín. Quả duối giống hạt ngô, chỉ ăn phần thịt bỏ hạt, có cảm giác ngọt thơm và mát. Chim chào mào rất thích ăn quả duối.

Quả ngấy.

Dân quê tôi gọi là cây ngấy, dân miền Bắc gọi là cây mâm xôi. Cây ngấy bò trên lá của những bụi dứa gai, biến cây dứa gai làm giàn leo cho cây ngấy. Cây ngấy ra hoa quanh năm, trên một chùm quả ngấy luôn có cả hoa và quả, có những quả mới hình thành và những quả đang chín đỏ mọng.

Quả ngấy, quê tôi gọi là nụ ngấy. Nụ ngấy có hình dáng giống quả dâu tây, nhưng nhỏ hơn, ngắn hơn, các khe gữa các tép quả rộng hơn. Có cây ngấy mấy ngày không có người hái, có thể hái được một vốc to quả chín. Quả ngấy chín có vị ngọt đậm, dôn dốt chua, ngon hơn dâu tây.

Xung quanh rú rậm có nhiều cây găng, bọn trẻ chúng tôi chỉ biết dùng nhớt quả găng, giặt quần áo thay xà phòng. Sau này tiếp xúc với dân miền Bắc, ăn món thạch xanh của họ đươc làm từ lá găng, mới biết tuổi thơ của mình đã bỏ phí nhiếu thứ quí.

Rú rậm thuộc địa phận làng tôi quản lý. Làng có lệ là, người dân chỉ được quét lá khô về đun, không được đụng đến lá và cành tươi. Ngoài lệ của làng, không có một ai quản lý, nhưng người dân vẫn tự nhắc nhở nhau thực hiện, họ còn tự quản không cho người làng khác vào khai thác lá khô của rú Rậm.

Khoảng dăm năm một lần, khi các thân cây tái sinh đã đủ lớn, cả làng cùng nhau chặt toàn bộ cây trên rú rậm, chia cho các hộ dân làm củi. Việc làm được tiến hành gọn gàng trong một ngày. Từ những gốc cây bị chặt cành, chồi mới mọc lên, lớn dần, chờ đến dăm năm sau rú Rậm lại cung cấp cho dân làng một đợt củi mới.

Sau khi vào hợp tác xã, rú Rậm được chia cho dân làm đất ở, thành làng Kim Qui ngày nay. Đất vườn của mỗi nhà được sử dụng theo ý thích của mỗi người, tạo nên rú cây nhấp nhô, không còn ra dáng một con rùa của ngày xưa.

Ngày nay, những loại quả của rú Rậm ngày xưa, chỉ còn là ký ức.

12. Hồ Kim Qui

Phía dưới chân điện Kim Qui, mé bên kia đường chiến lược, có chiếc ao tròn, đường kính khoảng 30m, nước trong xanh quang năm, chưa bao giờ cạn. Nhờ vẻ đẹp ngoại cảnh xung quanh ao cùng với sự tôn nghiêm của điện Kim Qui, dân làng tôi đã “nâng cấp” gọi là hồ Kim Qui. Trên bờ hồ có bãi đất rộng bao quanh, bọn trẻ chăn bò thường thả rông cho bò tự do gặm cỏ trên bãi đất này, còn bọn trẻ chăn bò, bỏ mặc bò, thoải mái vui chơi. Quanh bờ hồ có nhiều cây thân gỗ lâu năm và cây bụi. Trong số những cây đó, đáng chú ý nhất là một cây ươi, ba cây gôm nếp và nhiều bụi mây nước.

Cây ươi cao to, vượt trên những cây thân gỗ khác. Hàng năm vào mùa hè, những quả ơi chín, bung ra hai cánh vỏ đỏ tươi, nhìn từ xa, giống như những chùm hoa đỏ. Trên hai cánh vỏ đỏ tươi đó là những hạt ươi màu đen, giống như những hạt vải. Sau này tôi đọc báo Văn nghệ Quân đội, được biết các anh bộ đội Trường Sơn đã dùng hạt cây ươi làm thạch, họ gọi cây ươi là cây hương đào (cây hao đường). Thế là, bọn trẻ chúng tôi lại bỏ mất cái quí của hạt ươi.

Gôm nếp là cây gỗ lâu năm, lá nhỏ, xanh đậm, phân cành từ gần sát gốc. Cây gôm có nhiều cành, các cành sát gốc đều mọc ngang, xòa cành trên mặt hồ và trên khu đất ven hồ. Bọn trẻ chăn bò thường ngồi hóng mát trên những cành gôm sát gốc.

Quả gôm mọc từng chùm như quả xoan đâu, cũng giống quả xoan đâu nhưng to hơn. Quả gôm chín vào đầu mùa hè. Khi quả chưa chín vỏ có màu xanh, khi quả chín vỏ chuyến sang màu tím xanh. Bọn trẻ chăn trâu thường hái những chùm gôm già, ủ vào đống lá, ngày hôm sau quả gôm chín. Phần thịt quả gôm ăn dẻo, ngọt, thơm mùi cốm nếp.

Các khóm mây nước mọc thành bụi to, cây ra sau bọc ngoài cây ra trước. Lá của những cây con mọc mé ngoài rủ xuống sát tận mặt đất với những chiếc bẹ lá và gân lá tua tủa những chiếc gai nhọn và dài. Đường kính tán lá của một khóm mây nước rộng trên 5m, là khoảng đất riêng của chim bìm bịp và chim cu vức. Chim cu vức được dân miền Bắc gọi là chim quốc.

Khu vực Hồ Kim Qui là vương quốc của nhiều loại chim. Vào các buổi sáng, buổi trưa và buổi chiều tối, thường vang lên bản hòa tấu của nhiều tiếng chim. Chim bìm bịp với tiếng kêu thong thả: “bịp... bịp... bịp... bịp....”, chim tu tú với tiếng kêu cất cao âm cuối: “o hâu... o hâu” ..., chim cà cưỡng với tiếng kêu trau chuốt: “cọ ki cường... cọ ki cường”...., chim ác xác với tiếng kêu nháo nhác: “ác xắc...ác xác”...., chim quốc với tiếng kêu đanh gọn “cu vức...cu vức”, chim bồ chao với tiếng kêu như cải nhau, “lao xao như bồ chao vỗ tổ”...

Ngoài ra, còn có nhiều tiếng chim sống gần đó vọng theo, chim quạ kêu “ạc...ạc...”, chim tò hoét kêu “tò hoét...tò hoét...”, còn có mấy loài chim nữa, tôi chưa nhìn thấy chim, chỉ nghe tiếng hót: “Chi chọt cho hết... chi chọt cho hết...”, “bắt cô trói cột... bắt cô trói cột...” và “du di dụ dị... du di dụ dị... ”

Ngày nay, quanh hồ Kim Qui không còn một cây to hay một cây bụi nào, mặt hồ đã bị lấp gần hết, chỉ còn là một vũng nước nhỏ. Các loại chim kể trên cũng đã bỏ đi đâu mất, những tiếng chim của chúng chỉ là những ký ức xa xưa.

13. Nơi đồng cao, ruộng thấp

Không biết từ rất xa xưa, người làng tôi thuộc dân tộc gì, tên địa danh nào là Bộ Moong – Đồng Lào - Gia Trại - Con Trống - Cửa Lều - Cụp Tran - Vũng Bành - Nương Lành - Dượng Bạn - Côn Môn - Yên Mạ - Đập Xức - Đầu Bàu - Dị Nguộn - Dên - Giang - Nẩy - Oóc - Chủy... nghe như tiếng nước ngoài.

Từ những nơi đồng cao ruộng thấp này, người dân làng tôi trồng đủ các thứ cây trồng của nhà nông: Lúa nước, lúa cạn, khoai lang, ngô, mía, lạc, đỗ, đậu, vừng, sắn, củ vạc, củ từ, củ dong, khoai sọ ..., nói chung, nông dân Việt Nam có cây củ gì làng tôi có đủ các cây củ đó, chỉ trừ một số cây đặc chủng như khoai nưa - khoai nước...

*

Vào cuối tháng 9, cạnh con đường cái đầu làng, những thửa ruộng nếp lú bắt đầu trổ bông, hương thơm của lá lúa và của hoa lúa thoang thoảng bay theo những ngọn gió đồng. Những khóm nếp lú cao cây, được cấy thưa, nước ruộng sâu và trong, người đứng trên đường cái có thể nhìn thấy rõ những con cá rô lượn lờ kiếm ăn giữa khoảng trống của những khóm nếp lú gần đường cái.

Vào thời gian nầy, trời se se lạnh, nắng nhẹ, bọn trẻ đi câu cá rô. Cái thú của người câu cá rô là được nhìn thấy rõ ràng những con cá rô cắn câu. Con nào cũng giống con nào, ban đầu chúng hờ hửng ngửi miếng mồi rồi bơi ra xa. Một lúc sau, tiếc rẻ, chúng bơi quay lại. Lần này tuy táo bạo hơn, chúng vẫn ngậm hờ miếng mồi rồi nhả ra ngay, như cố tình đùa bởn với người câu.

Cứ bơi ra bơi vào mấy lần như thế, chỉ những chú cá rô táo bạo háu ăn mới cắn câu. Lần này chúng há to mồm, ngoạm cả miếng mồi bơi đi, kéo theo dây câu. Chiếc phao câu chạy theo con cá rồi chìm sâu xuống nước, lúc đó, người câu giật nghiêng cần câu, con cá rô mắc lưỡi câu vào mồm, bị hất tung lên đường cái. Nhìn con cá vùng vẩy một lúc trên đường cái, người câu thong thả đến bắt. Đó là lúc người câu cá tận hưỡng giây phút chiến thắng của người đi câu.

Một lần đi câu cá rô, nhiều lắm cũng chỉ câu được dăm con, với bọn trẻ đi câu là thú vui, có câu được cá hay không là không quan trọng. Sau này được tiếp xúc với nông dân đồng bằng Bắc bộ, họ có cách đánh cá rô bằng rọ thật tuyệt. Chỉ cần một chiếc rọ cá rô, đặt một dúm thóc vào mặt ruộng dưới chân chiếc rọ, cá rô vào ăn thóc, bơi lên rồi chui vào rọ. Buổi tối đặt rọ, sáng hôm sau đi thu rọ, một chiếc rọ ít nhất cũng có được vài ba con cá rô còn sống.

*

Quê tôi mưa lụt thường tập trung từ 15 tháng 7 đến 15 tháng 8 âm lịch, thời gian này có những lúc nước ngoài đồng thông thiên, chỉ còn lại những con đường lớn và những bờ ruộng lớn, cũng là lúc cá tràu đi ăn đêm. Quê tội gọi cá tràu, dân miền Bắc gọi là cá quả.

Cá tràu dưới các đầm và ao hồ, theo dòng nước bơi đến những ruộng lúa kiếm ăn. Bọn trẻ chúng tôi mỗi người có khoảng 10 chiếc cần câu cá tràu gọi là câu deo. Cần câu được làm bằng một đoạn tre to bằng chiếc đũa cả, dài khoảng 50cm, một phần của đoạn tre này được vót bỏ phần ruột, còn lại phần cật, hơ qua lửa uốn hơi cong cong, buộc dây câu vào phía trên.

Đoạn dây câu bằng cước hay được se bằng nhiều dây chỉ, dài khoảng 30cm, phía cuối dây có lưỡi câu. Khi câu cá tràu, người câu móc lưỡi câu vào da lưng con nhái, cắm chuôi cần câu vào bờ ruộng lúa, sao cho con nhái nhảy được trên mặt nước. Cá tràu đi ăn đêm, thấy con nhái nhảy trên mặt nước, lao đến, đớp con mồi rồi mắc câu. Mồm con cá tràu nằm gần mặt nước, con cá tràu chỉ còn biết cựa quậy, chờ người đi câu đến bắt. Hôm nào cũng có cá tràu cắn câu, hôm ít được một vài con, hôm nhiều được dăm con, một con nặng khoảng 0,3kg. Buổi chập choạng tối đi đặt câu, buổi sáng đi thu cá. Với bọn trẻ, đi câu cá tràu là đi chơi.

 Phần thân cá tràu được cắt khúc kho nước mắm, phần đầu và đuôi được băm nhỏ, trộn với nhân lạc giã nhỏ, rán chả.

*

Khi những ruộng lúa mùa vào chắc, gió đông tràn về, chim chèo bẻo ở tận những đâu bay về theo gió đông, bọn trẻ lại đi bẩy chim chèo bẻo. Người bẩy chim tách một cây lúa tận sát gốc, bỏ hết lá, bôi nhựa vào bông lúa đã bỏ hạt, lấy dây tóc buộc một đầu vào hai cánh già của con dế dũi, đầu kia của sợi tóc, treo vào phía cuối bông lúa, núp vào bụi mua hay bụi dứa trên bờ ruộng, giơ cao thân cây lúa có con dế dũi lên khỏi bụi cây, lúc lắc cây lúa cho con dế dũi bay.

 Chim chèo bẻo tinh mắt, có thể phát hiện được con dế dủi đang bay ở khoảng cách trên 50m. Khi nhìn thấy con dế dủi đang bay, nó nhào đến, vồ bắt con dế, rồi dính cánh chim vào nhựa trên bông lúa, kéo thân lúa đổ gục xuống. Người bẩy chim tóm gọn con chim, nhổ một chiếc lông cánh, xâu vào hai lỗ mũi, buộc khóa mỏ chim, buộc chân, buộc cánh, cho chim vào túi.   Mỗi buổi săn chim chèo bẻo, luồn lách khắp các cánh đồng, nhiều lắm cũng chỉ bẩy được một vài con. Thú vui chính của người săn chim chèo bẻo là thắng lợi tinh thần, họ vui sướng khi biết lợi dụng địa hình, đánh lừa được con chim chèo bẻo là giống chim vừa khôn vừa tinh mắt.

Thịt chèo bẻo được trộn với hạt lạc giả nhỏ, vo viên, rán chả.

14. Hến sông La

Sông Ngàn Phố chạy qua huyện Hương Sơn và sông Ngàn Sâu chảy qua huyện Hương Khê, gặp nhau tại Linh Cảm tạo thành sông La. Nơi gặp nhau của ba con sông này là ngã ba Tam Soa. Sông La to rộng, nước sâu, chạy dọc theo bốn xã: Đức Trường, Đức Tân, Đức Ninh và Đức Minh, gặp sông Lam ở gần Bến Thủy. Sông La dài khoảng 10 km.

Nơi bắt đầu của sông La có một bải bồi, dài khoảng 2 km. Phía nam chân bãi bồi này là những triền cát vàng, quê hương của hến sông La. Xã Đức Trường và Đức Tân chiếm hết phần đầu nguồn của sông La, nơi có nhiều hến.

Về mùa hè, nước thủy triều bắt đầu lên vào khoảng 1 giờ chiều và bắt đầu xuống vào khoảng 1 giờ sáng, chênh lệch mức nước giữa thủy triều lên và thủy triều xuống xuống khoảng 3m. Nước sông La trong xanh, lòng sông toàn cát vàng, có rất nhiều hến. Nếu ai đó thả tay bốc ngẫu nhiên một nắm cát của lòng sông, ít nhất cũng có được 1- 2 con hến to.

Nhiều người dân xã Đức Tân sống chuyên bằng nghề cào hến và chế biến hến. Hến được cào bằng thuyền, thuyền được thả trôi theo dòng nước thủy triều xuống, kéo theo chiếc cào hến. Người cào hến đứng trên thuyền, giữ cào và lắc cho cát lọt ra ngoài chiếc cào, hến được giữ lại ở trong cào. Thỉnh thoảng người cào hến kéo cào lên, đổ hến vào thuyền.

Xóm 2 xã Trường Sơn có nhiều người sống bằng nghề cào hến và chế biến hến. Những người chế biến hến mua hến tươi từ những người cào hến. Họ nhặt bỏ tạp chất, rửa sạch, đun chín, đãi ruột hến ra khỏi vỏ hến. Sau khi chế biến xong, người chế biến hến có được hai thùng nước hến và một mẹt ruột hến.

Người chế biến hến gánh nước hến và ruột hến bán chợ hôm tại xóm 8 làng tôi, bán chợ chiều tại xóm 3 xã Đức Tân. Ngoài những người bán hến ở chợ, có khoảng 5 người bán hến rong. Họ gánh nước hến và ruột hến đến bán tận từng ngõ hẻm, ai ai cũng có thể mua được. Người bán hến cất tiếng rao dài, ngân nga, âm từ thấp lên cao, kéo dài và nâng cao hai từ cuối: “Có ai mua hê..ế..n... kh...ô...ô...ông”.

Người mua hến ít tiền nhất là 5 xu, người nhiều tiền nhất là 2 hào. Canh hến là hổn hợp của nước hến và ruột hết, không pha thêm nước lã, không cho thêm rau xanh, chỉ cho thêm chút mắm tôm và miếng gừng giả nhỏ. Chỉ khi vào mùa có quả bí ta, dân bắc gọi là quả bầu, hến mới được nấu với quả bí ta. Thỉnh thoảng hến được nấu với lá hẹ.

 Hến Sông La vỏ vàng, to con, ruột chắc, nước ngọt là thức ăn chính của hai bữa cơm trong ngày của người dân quê tôi. Canh hến thường được ăn với cà pháo. Người làng tôi thường mời khách khách: “Mời bác ở lại ăn với chúng em bữa cơm cà” thực ra là: “Mời bác ở lại ăn với chúng em bữa cơm canh hến”.

 Món ăn đặc sản của làng tôi, là xào ruột hến với lá răm ăn với bánh đa nướng, hay canh hến ăn với khoai lang luộc. Khoai lang làng tôi bở đến tận vỏ, “ai về Hà Tĩnh thì về, ăn canh hến Đức Thọ, uống nước chè Hương sơn”.

15. Nhút 

TRƯỚC ĐẠI HỘI 7 - TƯỚNG GIÁP VÀ LẬP VỤ ÁN OAN ĐỂ GẠT ÔNG KHỎI CHÍNH TRƯỜNG DIỄN RA NHƯ THẾ NÀO - VỤ ÁN "NĂM CHÂU - SÁU SỨ".


TRƯỚC ĐẠI HỘI 7 - TƯỚNG GIÁP VÀ LẬP VỤ ÁN OAN ĐỂ GẠT ÔNG KHỎI CHÍNH TRƯỜNG DIỄN RA NHƯ THẾ NÀO - VỤ ÁN "NĂM CHÂU - SÁU SỨ".

“Võ Nguyên Giáp, Trần Văn Trà và âm mưu đảo chính”

( Theo FB Phan Trí Đỉnh )

Dựa theo lời kể của ông Võ Viết Thanh – Nguyên Trung tướng Công an nhân dân, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VI, Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Thứ trưởng Bộ Nội vụ (Bộ Công an hiện nay).

Trước Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, Đại tướng Võ Nguyên Giáp được Trung ương chỉ định về ứng cử đại biểu đi dự Đại hội tại Đảng bộ Nghệ Tĩnh. Cuối tháng 4-1991, ông vào Vinh dự họp với Đoàn đại biểu Tỉnh. Tới nơi thì đã quá trưa. Đợi vị tướng già cơm nước xong, Bí thư Tỉnh uỷ Nghệ Tĩnh Nguyễn Bá mới trao tận tay bức điện “khẩn tuyệt mật” của Ban Bí thư do ông Nguyễn Thanh Bình ký. Không được phép họp với Đoàn, tướng Giáp bị yêu cầu phải trở ra Hà Nội ngay trong chiều hôm đó.

Năm ấy tướng Giáp đã 80 tuổi. Đoạn đường Vinh – Hà Nội tuy chỉ hơn 300km nhưng bụi bặm và dằn xóc. Tướng Giáp trở về phòng, viết mấy dòng cáo lỗi gửi Đoàn đại biểu Nghệ Tĩnh rồi lại lên xe về Hà Nội, nơi ông sẽ phải ra trước Hội nghị Trung ương 12, đối diện với những cáo buộc chính trị mà về sau được gọi là vụ “Năm Châu – Sáu Sứ”.

Tại Hội nghị Trung ương 12, Khoá VI, ông Nguyễn Đức Tâm, Trưởng Ban Tổ chức, thay mặt Bộ Chính trị báo cáo với Ban Chấp hành Trung ương một văn bản tuyệt mật nói rằng: Một vụ bè phái vi phạm nguyên tắc Đảng hòng chi phối vấn đề bố trí nhân sự cấp cao đang diễn ra. Những người tham gia bao gồm Võ Nguyên Giáp, Trần Văn Trà, cùng một số cán bộ cao cấp khác. “Nghe ông Tâm nói, có cảm giác như đang có một âm mưu đảo chính để đưa Đại tướng Võ Nguyên Giáp lên làm chủ tịch nước sau đó thay ông Linh làm Tổng bí thư; đưa Trần Văn Trà lên làm bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Thời gian trước Hội nghị Trung ương 12, ông Trà bị triệu tập ra Hà Nội và bị giữ lại ở Nhà khách số 8 Chu Văn An. Văn bản tuyệt mật này được phổ biến tới thường vụ các tỉnh, thành, bằng cách cho đọc nguyên văn nhưng bị cấm sao chép”.

Tướng Đồng Sỹ Nguyên, uỷ viên Bộ Chính trị Khoá VI, nói: “Lật đổ là một câu chuyện bịa đặt. Ông Giáp không chỉ là một đại tướng mà xứng đáng là một nguyên soái. Một người không chỉ coi trọng sinh mạng binh sỹ mà còn đặt danh dự của tổ quốc lên trên. Ông là một người thận trọng. Nhân vụ Sáu Sứ, họ còn lật lại hồ sơ vụ ‘chống Đảng năm 1967’, đưa ra tài liệu cũ của Lê Đức Thọ, đây cũng là một vụ án được dựng lên”. Ông Võ Viết Thanh kể thêm: “Tại hai Hội nghị 12 và 13 của Ban Chấp hành Trung ương, nhiều vị tướng trong Quân đội hết sức bức xúc, đứng lên phát biểu bảo vệ tướng Giáp. Cụ Võ Nguyên Giáp cay đắng: Đến một vị tướng đã đánh thắng Điện Biên Phủ mà người ta vẫn vu cho là con nuôi của mật thám Pháp”.

Ông Võ Viết Thanh kể: “Tôi bay vào Sài Gòn. Anh em an ninh đã có đủ tư liệu, vấn đề là tình hình nội bộ rất căng vì có tác động từ cấp cao. Nhiều người khuyên tôi khi điều tra không nên làm khác báo cáo của Nguyễn Đức Tâm. Người gần gũi nhất là Thiếu tướng Trần Văn Danh cũng nói là có người khuyên như vậy. Ông Danh gọi tôi tới, tôi hỏi: ‘Lời khuyên này xuất phát từ đâu anh Ba?’. Ba Trần, tên thường gọi của tướng Trần Văn Danh, nói: ‘Ở cấp rất cao’. Tôi nói: ‘Tôi đề nghị anh Ba trả lời họ, tôi đang được giao một công việc mà tôi không thể nào làm trái đạo đức và pháp luật’. Ba Trần nghe bắt tay, không ngờ anh chỉ hỏi thế để thăm dò nhưng anh là người ủng hộ tôi làm đúng”.

Thứ Sáu, 1 tháng 1, 2021

Ông Vua Bảo Đại có cống hiến gì cho nước Việt Nam ???

 Ông Vua Bảo Đại có cống hiến gì cho nước Việt Nam ???





- Ông là người có những cải cách mới cho triều đình nhà Nguyễn

- Ông bãi bỏ các vị thượng thư già cả lạc hậu thay bằng những người trí thức mới

- Ông phế bỏ chế độ thái giám vô nhơn tánh, bỏ thủ tục quỳ lạy vua.

- Ông giải tán tam cung,lục viện để hàng ngàn phụ nữ tự do

- Ông mở rộng ngoại giao với các quốc gia trên thế giới như Campuchia, Trung Hoa Dân Quốc, Tân Tây Lan, Úc Đại Lợi, Lào, Anh Quốc, Pháp quốc, Ý Đại Lợi, Thái....

- Năm 1945, ông lợi dụng Pháp bị đảo chánh yêu cầu người Pháp trả lại độc lập cho VN sau gần 100 năm cai trị

- Ông và Trần Trọng Kim tiếp tế cứu đói trong trận đói năm Ất Dậu

- Năm 1948, ông yêu cầu Pháp trả lại sáu tỉnh Nam kỳ cho VN bị bảo hộ từ ngày cụ Phan qua xin chuộc bất thành mà tự vận.

- Từ đó, ông thành lập quốc gia Việt Nam với các cải cách dân chủ, lập quân đội, lập nội các, thủ tướng, giáo dục, và viết Hiến Pháp đầu tiên cho quốc gia VN độc lập.

- Ông thành lập trường võ bị Đà Lạt năm 1948.

- Năm 1949 , ông điều hành quốc gia VN và tham gia liên hiệp quốc và được chấp thuận là một quốc gia hợp pháp trong khi VNDCH bị bác đơn.

- Ông đại diện quốc gia VN độc lập gia nhập Liên Hiệp Quốc Tế Viễn Thông năm1952 bao gồm vô tuyến, viễn thông, và chọn đầu số điện thoại ở Nam kỳ là (+84).

- Ông thành lập Ngân hàng quốc gia VN vào tháng 1.1955 tại bến Chương Dương. (Sau chánh quyền VNCH tiếp quản vẫn để nguyên tên NGÂN HÀNG QUỐC GIA VN)

- Ông dựa vào uy tín của mình kiu gọi quốc tế viện trợ đưa hơn một triệu dân Bắc kỳ vô Nam tỵ nạn cộng sản năm 1954.

** Và hơn hết trong gần 20 năm trị vì ông chưa hề làm đổ máu một người con dân Việt Nam nào...

Năm 1954, ông không tham dự hiệp định chia đôi đất nước vì ông không muốn nhìn thấy quốc tế chia cắt đất nước của ông và cũng không muốn nhận lấy "một nửa mảnh sơn hà rách tả tơi" khi Pháp trao trả đất nước lại cho Quốc Chủ

Vua Bảo Đại đặt dân tộc vn trên ngai vàng của ổng....thà làm dân nước Tự Do hơn làm vua nước nô lệ

st.