( Xem kỳ I : http://thpttohieusonla.blogspot.com/2020/12/lang-toi-ngay-ay-tan-van-cua-tran-quy.html)
LÀNG TÔI NGÀY ẤY - TẢN VĂN CỦA TRÀN QUÝ LỘC ( II )
( Tiếp theo “ Từ trang 24 đến trang 46 )
11. Rú rậm
Rú rậm nằm mé ngoài và độc lập với núi Thiên Nhẫn, có hình con rùa đang bò ra sông La. Rú Rậm dài khoảng 300m, rộng khoảng 100m, cao khoảng 30m, nơi vị trí mắt rùa là điện Kim qui.
Rú Rậm gồm toàn cây gỗ tái sinh, có nhiều loại cây, nhiều nhất là cây trai và cây bai bái... Những cây tái sinh này tạo tán lá che gần hết phần trống mặt đất. Dưới tán lá có nhiều loại cây thân bò và thân bụi cho quả như sim, mua, móc, rạng, vú bò, bông trang, khu đăn, khu lồ, khu gióng, lộng cộng, chua ngút, ngấy ngoài Bắc gọi là cây mâm xôi...
Bọn trẻ chúng tôi gặp bất cứ loại quả của các cây nào nói trên là hái ăn, kể cả những loại quả không hề có một chút hương vị như quả lộng cộng, có vị chát đắng như quả mua hoặc có mùi hăng hắc như quả bai bái.
Đúng ra, chúng tôi phải loại quả bai bái ra khỏi thực đơn, ngoài phần có mùi hắc hắc, nếu ăn nhiều có cảm nhận hoa mắt và chảy nước miếng trong, như thế là quả bai bái có chất độc. Với bọn trẻ chúng tôi, chỉ khi ăn vào bị lăn quay đơ như gà toi, may ra mới có đứa sợ.
Mé bìa rừng là những bãi cỏ, có nhiều bụi duối mọc rãi rác, cứ có cành duối nào mọc được là bọn bò thè lưới xơi tái luôn. Ngoài cái thân duối to đùng ở phía trong, phía ngoài chỉ là những cành dăm, hết năm này sang năm khác chúng chỉ vẫn là những bụi duối.
Có nhiều loại quả gắn liền với tuổi thơ, tôi không bao giờ quên.
Quả khu gióng.
Khu gióng thuộc dạng thân dây, dẻo và cứng. Thân cây khu gióng được người dân cuộn thành nhiều vòng làm khu gióng, khu gióng là trôn đít của chiếc quang. Khu gióng ra quả quanh năm, cứ vài ba mắt lá có một chùm quả, một chùm có trên 15 quả nhỏ bằng đầu đũa, màu xanh. Khi quả chưa già, phần ruột của quả ăn như cơm nếp.
Quả vú bò.
Cây vú bò thân gỗ leo, quả như những chiếc vú bò màu tím đen, một chùm chỉ có vài ba quả, ăn như nho Mỹ. Có thể vú bò là một loại nho rừng.
Quả duối.
Vào mùa hè, duối nở hoa và cho quả. Quả duối chín có lớp thịt mọng nước màu vàng, bao bọc quanh một chiếc hạt duối. Quả duối chín hàng ngày, nếu không có người hái, chỉ sau 3 ngày sẽ có cả một cây duối vàng rực quả chín. Quả duối giống hạt ngô, chỉ ăn phần thịt bỏ hạt, có cảm giác ngọt thơm và mát. Chim chào mào rất thích ăn quả duối.
Quả ngấy.
Dân quê tôi gọi là cây ngấy, dân miền Bắc gọi là cây mâm xôi. Cây ngấy bò trên lá của những bụi dứa gai, biến cây dứa gai làm giàn leo cho cây ngấy. Cây ngấy ra hoa quanh năm, trên một chùm quả ngấy luôn có cả hoa và quả, có những quả mới hình thành và những quả đang chín đỏ mọng.
Quả ngấy, quê tôi gọi là nụ ngấy. Nụ ngấy có hình dáng giống quả dâu tây, nhưng nhỏ hơn, ngắn hơn, các khe gữa các tép quả rộng hơn. Có cây ngấy mấy ngày không có người hái, có thể hái được một vốc to quả chín. Quả ngấy chín có vị ngọt đậm, dôn dốt chua, ngon hơn dâu tây.
Xung quanh rú rậm có nhiều cây găng, bọn trẻ chúng tôi chỉ biết dùng nhớt quả găng, giặt quần áo thay xà phòng. Sau này tiếp xúc với dân miền Bắc, ăn món thạch xanh của họ đươc làm từ lá găng, mới biết tuổi thơ của mình đã bỏ phí nhiếu thứ quí.
Rú rậm thuộc địa phận làng tôi quản lý. Làng có lệ là, người dân chỉ được quét lá khô về đun, không được đụng đến lá và cành tươi. Ngoài lệ của làng, không có một ai quản lý, nhưng người dân vẫn tự nhắc nhở nhau thực hiện, họ còn tự quản không cho người làng khác vào khai thác lá khô của rú Rậm.
Khoảng dăm năm một lần, khi các thân cây tái sinh đã đủ lớn, cả làng cùng nhau chặt toàn bộ cây trên rú rậm, chia cho các hộ dân làm củi. Việc làm được tiến hành gọn gàng trong một ngày. Từ những gốc cây bị chặt cành, chồi mới mọc lên, lớn dần, chờ đến dăm năm sau rú Rậm lại cung cấp cho dân làng một đợt củi mới.
Sau khi vào hợp tác xã, rú Rậm được chia cho dân làm đất ở, thành làng Kim Qui ngày nay. Đất vườn của mỗi nhà được sử dụng theo ý thích của mỗi người, tạo nên rú cây nhấp nhô, không còn ra dáng một con rùa của ngày xưa.
Ngày nay, những loại quả của rú Rậm ngày xưa, chỉ còn là ký ức.
12. Hồ Kim Qui
Phía dưới chân điện Kim Qui, mé bên kia đường chiến lược, có chiếc ao tròn, đường kính khoảng 30m, nước trong xanh quang năm, chưa bao giờ cạn. Nhờ vẻ đẹp ngoại cảnh xung quanh ao cùng với sự tôn nghiêm của điện Kim Qui, dân làng tôi đã “nâng cấp” gọi là hồ Kim Qui. Trên bờ hồ có bãi đất rộng bao quanh, bọn trẻ chăn bò thường thả rông cho bò tự do gặm cỏ trên bãi đất này, còn bọn trẻ chăn bò, bỏ mặc bò, thoải mái vui chơi. Quanh bờ hồ có nhiều cây thân gỗ lâu năm và cây bụi. Trong số những cây đó, đáng chú ý nhất là một cây ươi, ba cây gôm nếp và nhiều bụi mây nước.
Cây ươi cao to, vượt trên những cây thân gỗ khác. Hàng năm vào mùa hè, những quả ơi chín, bung ra hai cánh vỏ đỏ tươi, nhìn từ xa, giống như những chùm hoa đỏ. Trên hai cánh vỏ đỏ tươi đó là những hạt ươi màu đen, giống như những hạt vải. Sau này tôi đọc báo Văn nghệ Quân đội, được biết các anh bộ đội Trường Sơn đã dùng hạt cây ươi làm thạch, họ gọi cây ươi là cây hương đào (cây hao đường). Thế là, bọn trẻ chúng tôi lại bỏ mất cái quí của hạt ươi.
Gôm nếp là cây gỗ lâu năm, lá nhỏ, xanh đậm, phân cành từ gần sát gốc. Cây gôm có nhiều cành, các cành sát gốc đều mọc ngang, xòa cành trên mặt hồ và trên khu đất ven hồ. Bọn trẻ chăn bò thường ngồi hóng mát trên những cành gôm sát gốc.
Quả gôm mọc từng chùm như quả xoan đâu, cũng giống quả xoan đâu nhưng to hơn. Quả gôm chín vào đầu mùa hè. Khi quả chưa chín vỏ có màu xanh, khi quả chín vỏ chuyến sang màu tím xanh. Bọn trẻ chăn trâu thường hái những chùm gôm già, ủ vào đống lá, ngày hôm sau quả gôm chín. Phần thịt quả gôm ăn dẻo, ngọt, thơm mùi cốm nếp.
Các khóm mây nước mọc thành bụi to, cây ra sau bọc ngoài cây ra trước. Lá của những cây con mọc mé ngoài rủ xuống sát tận mặt đất với những chiếc bẹ lá và gân lá tua tủa những chiếc gai nhọn và dài. Đường kính tán lá của một khóm mây nước rộng trên 5m, là khoảng đất riêng của chim bìm bịp và chim cu vức. Chim cu vức được dân miền Bắc gọi là chim quốc.
Khu vực Hồ Kim Qui là vương quốc của nhiều loại chim. Vào các buổi sáng, buổi trưa và buổi chiều tối, thường vang lên bản hòa tấu của nhiều tiếng chim. Chim bìm bịp với tiếng kêu thong thả: “bịp... bịp... bịp... bịp....”, chim tu tú với tiếng kêu cất cao âm cuối: “o hâu... o hâu” ..., chim cà cưỡng với tiếng kêu trau chuốt: “cọ ki cường... cọ ki cường”...., chim ác xác với tiếng kêu nháo nhác: “ác xắc...ác xác”...., chim quốc với tiếng kêu đanh gọn “cu vức...cu vức”, chim bồ chao với tiếng kêu như cải nhau, “lao xao như bồ chao vỗ tổ”...
Ngoài ra, còn có nhiều tiếng chim sống gần đó vọng theo, chim quạ kêu “ạc...ạc...”, chim tò hoét kêu “tò hoét...tò hoét...”, còn có mấy loài chim nữa, tôi chưa nhìn thấy chim, chỉ nghe tiếng hót: “Chi chọt cho hết... chi chọt cho hết...”, “bắt cô trói cột... bắt cô trói cột...” và “du di dụ dị... du di dụ dị... ”
Ngày nay, quanh hồ Kim Qui không còn một cây to hay một cây bụi nào, mặt hồ đã bị lấp gần hết, chỉ còn là một vũng nước nhỏ. Các loại chim kể trên cũng đã bỏ đi đâu mất, những tiếng chim của chúng chỉ là những ký ức xa xưa.
13. Nơi đồng cao, ruộng thấp
Không biết từ rất xa xưa, người làng tôi thuộc dân tộc gì, tên địa danh nào là Bộ Moong – Đồng Lào - Gia Trại - Con Trống - Cửa Lều - Cụp Tran - Vũng Bành - Nương Lành - Dượng Bạn - Côn Môn - Yên Mạ - Đập Xức - Đầu Bàu - Dị Nguộn - Dên - Giang - Nẩy - Oóc - Chủy... nghe như tiếng nước ngoài.
Từ những nơi đồng cao ruộng thấp này, người dân làng tôi trồng đủ các thứ cây trồng của nhà nông: Lúa nước, lúa cạn, khoai lang, ngô, mía, lạc, đỗ, đậu, vừng, sắn, củ vạc, củ từ, củ dong, khoai sọ ..., nói chung, nông dân Việt Nam có cây củ gì làng tôi có đủ các cây củ đó, chỉ trừ một số cây đặc chủng như khoai nưa - khoai nước...
*
Vào cuối tháng 9, cạnh con đường cái đầu làng, những thửa ruộng nếp lú bắt đầu trổ bông, hương thơm của lá lúa và của hoa lúa thoang thoảng bay theo những ngọn gió đồng. Những khóm nếp lú cao cây, được cấy thưa, nước ruộng sâu và trong, người đứng trên đường cái có thể nhìn thấy rõ những con cá rô lượn lờ kiếm ăn giữa khoảng trống của những khóm nếp lú gần đường cái.
Vào thời gian nầy, trời se se lạnh, nắng nhẹ, bọn trẻ đi câu cá rô. Cái thú của người câu cá rô là được nhìn thấy rõ ràng những con cá rô cắn câu. Con nào cũng giống con nào, ban đầu chúng hờ hửng ngửi miếng mồi rồi bơi ra xa. Một lúc sau, tiếc rẻ, chúng bơi quay lại. Lần này tuy táo bạo hơn, chúng vẫn ngậm hờ miếng mồi rồi nhả ra ngay, như cố tình đùa bởn với người câu.
Cứ bơi ra bơi vào mấy lần như thế, chỉ những chú cá rô táo bạo háu ăn mới cắn câu. Lần này chúng há to mồm, ngoạm cả miếng mồi bơi đi, kéo theo dây câu. Chiếc phao câu chạy theo con cá rồi chìm sâu xuống nước, lúc đó, người câu giật nghiêng cần câu, con cá rô mắc lưỡi câu vào mồm, bị hất tung lên đường cái. Nhìn con cá vùng vẩy một lúc trên đường cái, người câu thong thả đến bắt. Đó là lúc người câu cá tận hưỡng giây phút chiến thắng của người đi câu.
Một lần đi câu cá rô, nhiều lắm cũng chỉ câu được dăm con, với bọn trẻ đi câu là thú vui, có câu được cá hay không là không quan trọng. Sau này được tiếp xúc với nông dân đồng bằng Bắc bộ, họ có cách đánh cá rô bằng rọ thật tuyệt. Chỉ cần một chiếc rọ cá rô, đặt một dúm thóc vào mặt ruộng dưới chân chiếc rọ, cá rô vào ăn thóc, bơi lên rồi chui vào rọ. Buổi tối đặt rọ, sáng hôm sau đi thu rọ, một chiếc rọ ít nhất cũng có được vài ba con cá rô còn sống.
*
Quê tôi mưa lụt thường tập trung từ 15 tháng 7 đến 15 tháng 8 âm lịch, thời gian này có những lúc nước ngoài đồng thông thiên, chỉ còn lại những con đường lớn và những bờ ruộng lớn, cũng là lúc cá tràu đi ăn đêm. Quê tội gọi cá tràu, dân miền Bắc gọi là cá quả.
Cá tràu dưới các đầm và ao hồ, theo dòng nước bơi đến những ruộng lúa kiếm ăn. Bọn trẻ chúng tôi mỗi người có khoảng 10 chiếc cần câu cá tràu gọi là câu deo. Cần câu được làm bằng một đoạn tre to bằng chiếc đũa cả, dài khoảng 50cm, một phần của đoạn tre này được vót bỏ phần ruột, còn lại phần cật, hơ qua lửa uốn hơi cong cong, buộc dây câu vào phía trên.
Đoạn dây câu bằng cước hay được se bằng nhiều dây chỉ, dài khoảng 30cm, phía cuối dây có lưỡi câu. Khi câu cá tràu, người câu móc lưỡi câu vào da lưng con nhái, cắm chuôi cần câu vào bờ ruộng lúa, sao cho con nhái nhảy được trên mặt nước. Cá tràu đi ăn đêm, thấy con nhái nhảy trên mặt nước, lao đến, đớp con mồi rồi mắc câu. Mồm con cá tràu nằm gần mặt nước, con cá tràu chỉ còn biết cựa quậy, chờ người đi câu đến bắt. Hôm nào cũng có cá tràu cắn câu, hôm ít được một vài con, hôm nhiều được dăm con, một con nặng khoảng 0,3kg. Buổi chập choạng tối đi đặt câu, buổi sáng đi thu cá. Với bọn trẻ, đi câu cá tràu là đi chơi.
Phần thân cá tràu được cắt khúc kho nước mắm, phần đầu và đuôi được băm nhỏ, trộn với nhân lạc giã nhỏ, rán chả.
*
Khi những ruộng lúa mùa vào chắc, gió đông tràn về, chim chèo bẻo ở tận những đâu bay về theo gió đông, bọn trẻ lại đi bẩy chim chèo bẻo. Người bẩy chim tách một cây lúa tận sát gốc, bỏ hết lá, bôi nhựa vào bông lúa đã bỏ hạt, lấy dây tóc buộc một đầu vào hai cánh già của con dế dũi, đầu kia của sợi tóc, treo vào phía cuối bông lúa, núp vào bụi mua hay bụi dứa trên bờ ruộng, giơ cao thân cây lúa có con dế dũi lên khỏi bụi cây, lúc lắc cây lúa cho con dế dũi bay.
Chim chèo bẻo tinh mắt, có thể phát hiện được con dế dủi đang bay ở khoảng cách trên 50m. Khi nhìn thấy con dế dủi đang bay, nó nhào đến, vồ bắt con dế, rồi dính cánh chim vào nhựa trên bông lúa, kéo thân lúa đổ gục xuống. Người bẩy chim tóm gọn con chim, nhổ một chiếc lông cánh, xâu vào hai lỗ mũi, buộc khóa mỏ chim, buộc chân, buộc cánh, cho chim vào túi. Mỗi buổi săn chim chèo bẻo, luồn lách khắp các cánh đồng, nhiều lắm cũng chỉ bẩy được một vài con. Thú vui chính của người săn chim chèo bẻo là thắng lợi tinh thần, họ vui sướng khi biết lợi dụng địa hình, đánh lừa được con chim chèo bẻo là giống chim vừa khôn vừa tinh mắt.
Thịt chèo bẻo được trộn với hạt lạc giả nhỏ, vo viên, rán chả.
14. Hến sông La
Sông Ngàn Phố chạy qua huyện Hương Sơn và sông Ngàn Sâu chảy qua huyện Hương Khê, gặp nhau tại Linh Cảm tạo thành sông La. Nơi gặp nhau của ba con sông này là ngã ba Tam Soa. Sông La to rộng, nước sâu, chạy dọc theo bốn xã: Đức Trường, Đức Tân, Đức Ninh và Đức Minh, gặp sông Lam ở gần Bến Thủy. Sông La dài khoảng 10 km.
Nơi bắt đầu của sông La có một bải bồi, dài khoảng 2 km. Phía nam chân bãi bồi này là những triền cát vàng, quê hương của hến sông La. Xã Đức Trường và Đức Tân chiếm hết phần đầu nguồn của sông La, nơi có nhiều hến.
Về mùa hè, nước thủy triều bắt đầu lên vào khoảng 1 giờ chiều và bắt đầu xuống vào khoảng 1 giờ sáng, chênh lệch mức nước giữa thủy triều lên và thủy triều xuống xuống khoảng 3m. Nước sông La trong xanh, lòng sông toàn cát vàng, có rất nhiều hến. Nếu ai đó thả tay bốc ngẫu nhiên một nắm cát của lòng sông, ít nhất cũng có được 1- 2 con hến to.
Nhiều người dân xã Đức Tân sống chuyên bằng nghề cào hến và chế biến hến. Hến được cào bằng thuyền, thuyền được thả trôi theo dòng nước thủy triều xuống, kéo theo chiếc cào hến. Người cào hến đứng trên thuyền, giữ cào và lắc cho cát lọt ra ngoài chiếc cào, hến được giữ lại ở trong cào. Thỉnh thoảng người cào hến kéo cào lên, đổ hến vào thuyền.
Xóm 2 xã Trường Sơn có nhiều người sống bằng nghề cào hến và chế biến hến. Những người chế biến hến mua hến tươi từ những người cào hến. Họ nhặt bỏ tạp chất, rửa sạch, đun chín, đãi ruột hến ra khỏi vỏ hến. Sau khi chế biến xong, người chế biến hến có được hai thùng nước hến và một mẹt ruột hến.
Người chế biến hến gánh nước hến và ruột hến bán chợ hôm tại xóm 8 làng tôi, bán chợ chiều tại xóm 3 xã Đức Tân. Ngoài những người bán hến ở chợ, có khoảng 5 người bán hến rong. Họ gánh nước hến và ruột hến đến bán tận từng ngõ hẻm, ai ai cũng có thể mua được. Người bán hến cất tiếng rao dài, ngân nga, âm từ thấp lên cao, kéo dài và nâng cao hai từ cuối: “Có ai mua hê..ế..n... kh...ô...ô...ông”.
Người mua hến ít tiền nhất là 5 xu, người nhiều tiền nhất là 2 hào. Canh hến là hổn hợp của nước hến và ruột hết, không pha thêm nước lã, không cho thêm rau xanh, chỉ cho thêm chút mắm tôm và miếng gừng giả nhỏ. Chỉ khi vào mùa có quả bí ta, dân bắc gọi là quả bầu, hến mới được nấu với quả bí ta. Thỉnh thoảng hến được nấu với lá hẹ.
Hến Sông La vỏ vàng, to con, ruột chắc, nước ngọt là thức ăn chính của hai bữa cơm trong ngày của người dân quê tôi. Canh hến thường được ăn với cà pháo. Người làng tôi thường mời khách khách: “Mời bác ở lại ăn với chúng em bữa cơm cà” thực ra là: “Mời bác ở lại ăn với chúng em bữa cơm canh hến”.
Món ăn đặc sản của làng tôi, là xào ruột hến với lá răm ăn với bánh đa nướng, hay canh hến ăn với khoai lang luộc. Khoai lang làng tôi bở đến tận vỏ, “ai về Hà Tĩnh thì về, ăn canh hến Đức Thọ, uống nước chè Hương sơn”.
15. Nhút