Posted
by adminbasam on
27/05/2016
Trong một khả năng xảy ra chiến
tranh, tức là trong tình huống Việt Nam gặp nguy cơ đe dọa an ninh chủ
quyền, thì hợp tác an ninh hàng hải ở mức hiện tại giữa hai nước,
chỉ dừng ở mức tuần tra chung, cứu trợ thiên tai, chống khủng bố hay
các tình huống an ninh phi truyền thống… không đủ để đáp ứng đòi hỏi
của Việt Nam. Một Hiệp định an ninh chung phải được ký kết ràng buộc
trách nhiệm bảo vệ an ninh cho mỗi bên. Hiệp ước như vậy sẽ có thể
là một bước tiếp của “Hiệp định khung hoà bình” Việt Mỹ đã được
ký trong chuyến đi này, ngay sáng ngày 24/05/2016 tại Hà Nội.
_____
Bùi Quang Vơm
26-5-2016
TT
Obama sau khi nói chuyện xong ở Mỹ Đình, Hà Nội. Ảnh: REUTERS/Kham
Lệnh cấm vận vũ
khí sát thương đã được dỡ bỏ. Tổng thống Mỹ OBAMA đã công
bố ngay ngày đầu tiên đến Hà Nội, sáng 23/05/2016. Lịch
sử quan hệ Việt Mỹ có thể bắt đầu một chương
mới. Liệu có thể ăn mừng không?
Lệnh
cậm vận vũ khí của Mỹ bắt nguồn từ sự kiện vịnh Bắc bộ năm 1964.
Chế độ cộng sản Bắc Việt chính thức trở thành kẻ thù chiến tranh
của Hợp Chủng quốc Hoa Kỳ. Cuộc chiến tranh uỷ nhiệm giữa hai hệ
thống chế độ, đại diện hai hệ thống tư tưởng toàn cầu bắt
đầu, bằng những cuộc ném bom miền Bắc Việt Nam. Thắng hay bại
trong cuộc chiến này không chỉ là thắng bại của ưu thế quân
sự mà chủ yếu bị gắn vào biểu tượng thắng bại của ý
thức hệ Dân chủ và ý thức hệ Cộng sản.
Theo G.S Zach
Abuza từ Học viện Chiến tranh Hoa Kỳ, lệnh cấm vận với Việt Nam
chính thức được áp dụng năm 1975, nhưng nâng mức, khi
Việt Nam đưa quân vào Campuchia năm 1978, danh nghĩa tiêu diệt Pon
Pot, nhưng sau đó có mưu đồ chiếm đóng.
Lệnh cấm
vận hoàn toàn đối với Việt Nam được Quốc hội Mỹ phê chuẩn
và được đưa vào luật năm 1984, Quy định Buôn bán vũ khí quốc tế
(ITAR, International Traffic in Arms Regulations) liệt Việt Nam vào
danh sách các quốc gia bị cấm mua bán vũ khí với Mỹ và các đồng
minh quân sự của Mỹ. Luật này áp dụng cho các quốc gia kẻ thù của
Mỹ, các chế độ được luật pháp Mỹ coi là khủng bố, chống lại dân chủ.
Dù năm 1995 hai nước đã bình thường hóa quan hệ ngoại giao nhưng lệnh cấm vận
vũ khí vẫn không được dỡ bỏ và kéo dài tiếp hơn 20 năm qua. Dấu
mốc lần này thực sự là điều mà cả hai bên cùng mong muốn.
Như vậy, cấm vận
vũ khí không phải có tuổi 41 năm (từ sau chiến tranh năm 1975), mà
là 48 năm. Gần nửa thế kỷ là kẻ thù, nay trở thành bạn. Đúng là
“Trời còn để có hôm nay/ Tan sương đầu ngõ, vén mây giữa trời”. Chúng
ta có quyền ăn mừng cho cuộc tan sương này.
Sự sụp đổ của
ý thức hệ
– Chiến tranh lạnh kết thúc từ sau
sự sụp đổ của hệ thống XHCN thế giới cùng lúc với sự sụp̣ đổ
và tan rã của Liên bang cộng hoà XHCN Xô Viết năm 1991, nhưng chủ nghĩa
cộng sản thế giới vẫn chưa hoàn toàn biến
mất. Đảng cộng sản vẫn còn cầm quyền ở Trung Quốc, Triều
Tiên, Cuba và Việt Nam. Những nước này đương nhiên là những nước
mà luật pháp Mỹ xếp cùng phía với các quốc gia như
Iran, Triều Tiên, Libye của Kadhafi, Irak của Sadam Hussein, Alqueda,
IS… là những quốc gia hay tổ chức khủng bố, nặng hơn là
kẻ thù của nhân loại, là đối tượng phải bị tiêu diệt.
Trong số những quốc
gia này, Việt Nam là nước đầu tiên và độc nhất cho tới nay được Mỹ
huỷ bỏ lệnh cấm vận. Một cách gián tiếp, Hoa kỳ không còn coi Việt
Nam là nước có khác biệt ý thức hệ. Luật pháp Mỹ quy định Mỹ chỉ
được bán vũ khí cho các quốc gia bạn. Mỹ bán vũ khí cho đồng minh
và cấm các đồng minh bán cho bên thứ ba, nếu bên thứ ba không phải là
bạn. Nhật và Israel không thể bán vũ khí cho Việt Nam, nếu Việt Nam
không được coi là quốc gia bạn. Từ nay, Việt nam có thể mua vũ khí
Mỹ, vũ khí Nhật, vũ khí Israel, của bất cứ nước nào thuộc khối
NATO, vì Việt Nam là bạn của Mỹ. Việt Nam không thuộc hệ thống tư
tưởng đối kháng.
– Việc dỡ bỏ lệnh
cấm vận này, sau khi được Quốc Hội Mỹ thông qua, được luật
hóa, sẽ mở ra một chương hoàn toàn mới cho quan hệ hai nước. Việt Nam
không bị coi là quốc gia thù địch. Thể chế chính trị độc đảng cộng
sản của Việt Nam chính thức được luật pháp Mỹ thừa nhận, bình đẳng
và có đầy đủ quyền và pháp nhân như mọi thể chế chính trị khác mà
nền dân chủ Mỹ thừa nhận. Đây là điều mà những nhà
lãnh đạo của chính quyền Hà Nội luôn luôn
yêu cầu Mỹ mỗi lần có chuyến thăm viếng, hay sự kiện
phải ra tuyên bố chung, như một bảo đảm cho an toàn của chế độ.
Cùng với việc dỡ
bỏ cấm vận vũ khí là sự dỡ bỏ nghi kỵ giữa hai chế độ, đặc biệt
của nhà cầm quyền Hà nội với tâm lý lo sợ của một tư thế thấp kém
và của một chế độ mong manh. Hà Nội sẽ bạo dạn hơn, tự tin hơn và
cởi mở hơn trong các bước đi tiếp. Từ bình thường hóa quan hệ hoàn
toàn tới quan hệ bạn bè, và từ bạn bè tới đồng minh là một quá
trình, nhưng là quá trình liên kết tiệm tiến, không có phân cách rõ
ràng về chất, cũng như không có ranh giới không gian và thời gian.
– Cùng với hủy
bỏ lệnh cấm vận, những căn cứ địa cuối cùng của đối kháng ý
thức hệ cũng được dỡ bỏ. Những kẻ cố thủ nhất, mù quáng nhất
trong chế độ không còn đất để bám víu. Từ nay, những kẻ rao
giảng chủ nghĩa láng giềng sẽ không còn chỗ đứng. Bốn tốt và mười
sáu chữ vàng sẽ ít xuất hiện trên đài, báo. Liên hoan thanh niên và
sinh viên Việt – Trung hàng năm sẽ không còn nội dung «liên hoan» nữa.
Hội hữu nghị Việt Trung sẽ giảm biên chế và sẽ thu gọn kinh phí
hoạt động. Những cụm từ “kẻ thù số một”, “kẻ thù trực tiếp”,
“kẻ thù ngàn đời”… sẽ tái xuất hiện trên báo chí chính thống
như thời ông Lê Duẩn.
– Hội thảo Lý luận
Trung Việt giữa hai cơ quan nghiên cứu lý luận cao cấp của hai đảng, do
một uỷ viên bộ chính trị phụ trách tuyên giáo dẫn
đầu, gồm 50 cán bộ nghiên cứu cao cấp của hai đảng, được tổ
chức luân phiên, một năm tại Trung Quốc, một năm tại Việt Nam là
tổ chức có nguồn gốc ý thức hệ cộng sản, và có mục đích bảo vệ,
tăng cường và phát triển ý thức hệ cộng sản.
Tổ chức này do
chính Nguyễn Phú Trọng, nguyên bí thư Hà Nội kiêm chủ tịch
Hội đồng lý luận Trung ương là đồng sáng lập với phía Trung
Quốc, và trực tiếp dẫn đầu đoàn Việt Nam dự Hội thảo lần thứ nhất
năm 2003. Hội thảo gần đ̣ây nhất là hội thảo lần thứ XI, tổ chức ngày
17/06/2015 tại Thượng Hải, giữa Đinh Thế Huynh phía Việt Nam và
Lưu Kỳ Bảo, uỷ viện bộ chính trị, bí thư TW, kiêm Trưởng ban Tuyên
truyền TW đảng cộng sảng Trung Quốc.
Hội Thảo lý
luận từ lâu là công cụ mà Trung quốc sử dụng để kiểm soát và
khống chế bộ máy lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam, nhân danh bảo
vệ trung thành với chủ nghĩa Mác Lênin và chủ nghĩa quốc tế
cộng sản. Đặc biệt thông qua các hiệp định trao đổi và đào tạo hàng
năm số lượng lớn cán bộ quản lý cao cấp, do đảng cộng sản Trung
Quốc tổ chức tại Bắc Kinh và đài thọ kinh phí.
Cơ chế Hội
Thảo lý luận hàng năm được cả hai đảng coi là nền tảng bảo vệ
chế độ hai nước. Nó được coi như một loại Hiệp ước An ninh, cho
phép quân đội hai nước, đều do đảng lãnh đạo tuyệt đối và trực
tiếp, có thể được huy động, và can thiệp, trong trường hợp chế độ
của nước này hay nước kia bị đe dọa. Hơn thế, những nhà lãnh đạo cả
hai đảng đều có tham vọng là lãnh tụ của phong trào cộng sản
quốc tế, ôm mộng khôi phục và lập lại được Quốc tế cộng sản.
Đó là chiếc bình sứ mà Thường Vạn Toàn, bộ trưởng Quốc phòng Trung
Quốc tặng cho Phùng Quang Thanh tại Giao lưu biên giới Trung – Việt
năm 2015, là «Đại cục» mà Tập Cận Bình răn đe giới tinh hoa
Việt ngay tại hội trường Diên Hồng, Quốc Hội Việt
Nam, tháng 11/2015.
Việc dỡ bỏ lệnh
cấm vận là một khẳng định, rằng lợi ích quốc gia
mới là thứ vĩnh viễn, ý thức hệ chỉ là thứ phù du. Rồi chúng
ta sẽ chứng kiến sự biến mất không cờ không trống của cơ chế
«Hội Thảo lý luận Trung Việt”, mặc dù có thể không ngay lập
tức. Ông Đinh Thế Huynh sẽ không cần kiêm chức Chủ tịch Hội đồng lý
luận TW nữa. Trưởng ban tuyên giáo trẻ tuổi Võ Văn Thưởng sẽ mất cơ
hội được đào tạo chuyên sâu về chủ nghĩa Mác tại các trường
Đảng tại Bắc Kinh, và tránh được nhiễm máu Trung Quốc. Cây
măng mà ông Nguyễn Phú Trọng hy vọng có lẽ không lớn lên
thành loại tre giống ông và Đinh Thế Huynh. Lý luận Mác
Lê sẽ chết cùng với lệnh cấm vận, vưà vì cổ hủ, vừa vì đảng không
còn người, không còn người bị lưà.
– Chính Thời báo
Hoàn cầu cũng thấy «…hiện tại với việc Mỹ dỡ bỏ hoàn toàn cấm
vận vũ khí sát thương cho Việt Nam, một quốc gia theo thể chế xã hội chủ nghĩa,
có thể thấy chiến lược ngoại giao của Mỹ không còn bị “ý thức hệ hóa” như trước
khiến người ta phải xem xét lại, nghiên cứu kỹ.
Cử chỉ này của ông
Obama vừa nhằm mục đích để lại di sản ngoại giao trước khi rời Nhà Trắng, đồng
thời còn tính toán đến chiến lược thúc đẩy chính sách xoay trục sang châu Á –
Thái Bình Dương. Khi Mỹ cần gấp rút bao vây Trung Quốc trên Biển Đông, bất luận
là ý thức hệ hay nhân quyền đều có thể nới lỏng hơn một chút.”
– Dù lãnh đạo đảng
cộng sản Việt Nam muốn hay không, việc dỡ bỏ lệnh cấm vận vũ khí
không thể che đậy mục tiêu là nhằm chống lại Trung Quốc, nói một
cách khác, khái niệm bạn thù, í́t nhất trên lĩnh vực chủ quyền
quốc gia, đã công khai xác định ai là bạn, ai là thù. Việt Nam đã
hoàn toàn đoạn tuyệt sự trói buộc và chi phối của Trung Quốc, thậm
chí chính thức lựa chọn đối đầu với Trung Quốc, dù chỉ trên vấn đề
biển đảo. Lãnh đạo đảng cộng sản không muốn, có thể còn lo sợ,
nhưng nhân dân Việt Nam thì mừng.
An ninh Quốc
phòng và Biển Đông
– Ông Obama nói
«việc dỡ bỏ lệnh cấm vận là kết quả sự phát triển của quan hệ hai
nước, không liên quan tới Trung Quốc và biển Đông»,
nhưng trên thực tế, không một ai không biết, động cơ chủ yếu
dẫn hai nước Việt Mỹ tới sự tin cậy hôm nay là ý chí
và nguyện vọng bảo vệ chủ quyền biển đảo của Việt Nam và
chiến lược chuyển trục của Mỹ nhằm ngăn chặn âm mưu bành trướng
của Trung Quốc. Đây là sự gặp gỡ của lợi ích quốc gia. Khi nói «không
có bạn hay kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có lợi ích quốc gia là vĩnh
viễn», thì cũng có thể hiểu rằng mối quan hệ này có độ bền
không thể ngắn, vì chủ quyền biển đảo là lợi ích vĩnh viễn của
Việt Nam, và lợi ích gắn với tự do hàng hải quốc tế là lợi ích
vĩnh viễn không chỉ của Mỹ, mà của tất cả các nước, trước hết là
các siêu cường có trách nhiệm trên thế giới. Trong tình thế hiện
tại, không một quốc gia nào có vai trò và sức mạnh thích hợp hơn
Mỹ.
– Lệnh cấm vận vũ
khí được dỡ bỏ cho phép Việt Nam có cơ hội hiện đại hoá trang bị
vũ khí tự vệ. Mỹ sẽ cung cấp ngay cho Việt Nam 18 tàu tuần tra Metal
Shark, Hải quân Việt nam có thể được trang bị máy bay trinh sát săn ngầm
P-3C Orion. Sau đó là máy bay vận tải hạng nặng C-130 Hercules. Việt
Nam có thể sẽ mua chiến đấu cơ hiện đạ̣i F-16. Hãng thông tấn Sputnik
dẫn lời Jim Jatras- cựu quan chức Bộ Ngoại giao Mỹ cho biết, “tàu chiến ven bờ
LCS và chiến đấu cơ F/A-18 nhiều khả năng sẽ là hai cái tên
đứng đầu trong danh sách vũ khí mà Việt Nam có thể mua từ Mỹ sau khi Tổng thống
Mỹ Barack Obama tuyên bố dỡ bỏ lệnh cấm vận vũ khí kéo dài 50 năm đối với Hà
Nội”. CH-47F là ứng viên để trang bị cho Lực lượng Đổ bộ đường không mới
thành lập của Việt Nam.
Vũ khí sát thương được
hiểu là loại vũ khí nhằm mục đích tối quan trọng là trực tiếp tiêu diệt nhanh
chóng kẻ địch. Những vũ khí sát thương có uy lực lớn, sức công phá khủng khiếp
và gây chấn thương nghiêm trọng hoặc thiệt mạng ngay tức khắc.
Trong chiến tranh
thông thường, vũ khí sát thương là một con bài quan trọng để áp chế lực lượng
đối phương và tung ra đòn quyết định giành chiến thắng cuối cùng. Việt
Nam rất cần cho tình huống phải đối phó với chiến tranh xâm lược của
Trung Quốc như tình huống xẩy ra tại các vùng biên giới phía Bắc năm
1979, hoặc như trận Gạc Ma.
Trước đây hồi tháng
8.2015, Nigeria từng được Mỹ dỡ một phần lệnh cấm vận vũ khí sau khi tổ chức
khủng bố Boko Haram hoành hành quá mạnh ở quốc gia châu Phi này. Khi lệnh cấm
được tháo bỏ, vũ khí Mỹ đã giúp Nigeria ngăn chặn Boko Haram
phát triển quá mức.
Ai Cập cũng từng được
Mỹ dỡ bỏ lệnh cấm mua vũ khí sau khi tổ chức khủng bố IS tăng cường “chân rết”
khiến tình hình vô cùng nguy cấp. Sau cuộc điện thoại giữa ông Obama và người
đồng cấp Sisi, Ai Cập đã được mua 12 chiến đấu cơ F-16, 20 tên lửa Harpoon và
124 tên lửa M1A1 Abrams hạng nặng nhằm tiễu trừ khủng bố.
– Theo New York Times,
nếu chiến hạm Mỹ được phép vào Cam Ranh (nằm ở phía Tây của biển Đông), cùng
với căn cứ ở Philippines (nằm ở rìa Đông), Mỹ sẽ tạo được thế gọng kìm trên
Biển Đông, bao vây các căn cứ quân sự Trung Quốc dựng lên phi pháp. Giáo sư
Alexander L.Vuving, Trung tâm nghiên cứu an ninh châu Á – Thái Bình Dương của Mỹ,
nhận định: “Nếu xảy ra sự cố trên Biển Đông, Mỹ cần nhiều thời gian hơn để hiện
diện trong khu vực so với Trung Quốc. Việc chiến hạm Mỹ thường xuyên ra vào
Vịnh Cam Ranh rất thuận lợi cho Washington trong việc duy trì cân bằng quyền
lực với Bắc Kinh”.
Dỡ bỏ lệnh cấm
vận cho phép Mỹ tận dụng cơ hội khai thác Cam ranh trong khi Nga đang
còn “cân nhắc”. Cam Ranh sẽ không trở thành căn cứ quân sự của riêng
Mỹ, nhưng với ưu thế vũ khí và kinh phí, trong sự lúng túng do khó
khăn kinh tế của Nga, Mỹ dễ dàng chiếm thế thượng phong. Hiện đã có
Hiệp định lưu giữ thiết bị Mỹ tại Đà Nẵng. Sẽ không có từ “Căn cứ
quân sự”, nhưng thực chất là gì, và cách gọi như thế nào, chưa
bao giờ là chuyện khó khăn đối với Hà Nội.
Sự có mặt thường
xuyên và chiếm ưu thế của Mỹ tại Cam Ranh, (dù trên danh nghĩa
chỉ do Mỹ không có khó khăn tài chính) sẽ biến âm mưu độc chiếm
biển Đông bằng sức mạnh quân sự của Trung Quốc thành ảo tưởng. Trung
Quốc đã rất tốn kém, cả tiền bạc lẫn uy tín quốc tế, chỉ để kiểm
soát được biển Đông, biến đường lưỡi bò thành thực tại. Nhưng với
sự có mặt của hải quân Mỹ tại căn cứ Subic Philippines và Cam ranh
Việt Nam, quyền tự do hàng hải trên toàn bộ biển Đông là thực tế
bất khả kháng.Tất cả những khí tài, những đầu tư tốn kém của Trung
Quốc tại Hoàng Sa, đặc biệt tại Trường Sa sẽ trở thành vô dụng.
Chiến tranh Trung Việt sẽ không bao giờ còn khả năng xảy ra.
– Tờ Hoàn Cầu Thời báo
bằng tiếng Hoa có trụ sở tại Bắc Kinh chạy bài với tiêu đề “Obama không quên
‘quây lưới’ quanh Trung Quốc trước khi rời nhiệm sở”.
“Các cựu thù không
được châm ngòi mồi lửa trong khu vực” là tiêu đề của bài báo đăng trên tờ Trung
Hoa Nhật báo ở Bắc Kinh.
Bài báo bình luận rằng
“Mỹ đang sử dụng Việt Nam để đối trọng với sức mạnh ngày càng lớn của Trung
Quốc, đặc biệt sau những căng thẳng gia tăng ở Nam Hải vì các tuyên bố chủ
quyền của các nước này. Điều đó, nếu đúng, báo hiệu xấu cho hòa bình
và ổn định khu vực, vì nó sẽ làm phức tạp thêm tình hình ở Nam Hải, và có nguy
cơ biến khu vực này thành một mồi lửa xung đột…»
Nếu Hoàn Cầu Thời
báo là phát ngôn của nhà cầm quyền Trung Quốc, thì một sự thật không
che đậy, có thể xác định được, đó là đối với đảng cộng sản Trung
Quốc, đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước Việt Nam đã đứng về phía
Mỹ, đối đầu và chống lại Trung Quốc, có thể chưa là đồng minh của
Mỹ, nhưng với Trung Quốc thì đã là kẻ thù. Và nếu là kẻ thù của
Trung Quốc, thì khó thóat khỏi bị trừng trị và nhận thêm bài học
mới. Việt Nam đối diện với một cuộc chiến tranh, cứng trong một cơ
hội có thể, nhưng mềm thì luôn có, lúc nào cũng có, và mức độ
hiểm độc chỉ ngày càng tăng.
– Tuy vậy, không
thể bỏ qua khả năng một thủ đoạn xấu chơi được hiển hiện dưới sự
hoan hỉ hầu như chỉ từ phía công chúng này. Có thể thấy khuôn mặt
lạnh lùng của Trần Đại Quang bên cạnh OBAMA. Có thể thấy báo chí
rất ít lời ca ngợi. Không thấy một vị lãnh đạo cao cấp nào có phát
ngôn, và biểu thị tình cảm.
Trước chuyến thăm
của Tổng thống OBAMA, sáng 16-5, thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc đã
có chuyến thăm Nga và hội đàm với bộ trưởng quốc phòng Nga. Chuyên
gia Nga Dmitry Mosyakov nói “Quyết định dỡ bỏ lệnh cấm vận liên quan đến
chính sách của Mỹ nhằm kéo Việt Nam về phía mình, để tái trang bị quân
đội Việt Nam với vũ khí của Mỹ. Tuy nhiên, tôi không nghĩ rằng, chuyến thăm
này có ảnh hưởng gì đó đến đường lối đối ngoại của Hà Nội và chính
sách tái vũ trang quân đội Việt Nam. Kết quả cuộc hội đàm của Thủ tướng
Nguyễn Xuân Phúc với Tổng thống Nga và Thủ tướng Nga cho thấy rằng, mối quan
hệ Việt-Nga có triển vọng rất lớn, kể cả trong lĩnh vực hợp tác kỹ thuật quân
sự”. http://vn.sputniknews.com/vietnam/20160523/1782257.html
Một thực tế là từ
năm 2008, Việt Nam và Nga đã thiết lập cơ chế đối thoại chiến lược ngoại
giao-quốc phòng-an ninh thường niên cấp Thứ trưởng thường trực Ngoại giao; năm
2013 thiết lập cơ chế đối thoại chiến lược cấp Thứ trưởng Quốc phòng.
Đây rõ ràng là một
trở ngại khó vượt qua. Nga thuộc danh sách bị cấm buôn bán vũ khí
với Mỹ và đồng minh của Mỹ, trong khi gần 90% trang thiết bị quân
sự trong quân đội Việt Nam là của Nga, quan hệ mua bán vũ khí giưã
Việt Nam và Nga có một lịch sử phát triển từ lâu và đã ở mức rất
sâu. Làm thế nào để vưà mua được vũ khí của Mỹ, vừa phải đảm bảo
vũ khí đó không lọt vào tay Nga, và từ Nga, qua Trung Quốc. Chưa kể
nhân quyền, chỉ điều này cũng biến việc dỡ bỏ lệnh cấm vận vũ khí
với Mỹ khó để trở thành khả thi.
Rất có khả năng,
với Hà Nội, “Dỡ bỏ cấm vận vũ khí sát thương” sẽ chỉ gói gọn
trong phạm vi hàng hải nhằm chống Trung Quốc trên biển, giúp chế độ
thoát khỏi thế trên đe dưới buá của dân. Ở mọi chỗ khác, việc khác,
tất cả đều như cũ. Mục đích chính, mục đích căn bản của “Dỡ bỏ cấm
vận vũ khí sát thương”, chỉ là một đảm bảo cho việc bình thường
hóa quan hệ hai nước, nghĩa là chế độ độc đảng được thừa nhận trong
pháp luật Mỹ, không còn nguy cơ là đối tượng lật đổ của chính phủ
Mỹ. Rất có thể Hà Nội vẫn chủ trương “tách khỏi Trung Quốc nhưng
không cách xa, tiếp cận Mỹ nhưng không quá gần”.
Ở Việt nam mới có
một loại định nghĩa mới về khái niệm bạn và thù. “Người giúp giữ
chủ quyền là bạn, ngược lại thì là thù”. Định nghĩa này mới hoàn
toàn. Trước đây, chỉ có tư sản, địa chủ là kẻ thù giai cấp vô sản,
tư bản chủ nghĩa là kẻ thù của xã hội chủ nghĩa, không có bạn và
kẻ thù chung chung, chung chung là xét lại, là phản động. Phải rồi,
không còn ý thức hệ nữa. Khác về tư tưởng không còn là kẻ thù. Mỹ
giúp giữ chủ quyền, Mỹ là bạn. Ngược lại, Trung Quốc cướp chiếm
biển đảo, Trung Quốc là thù. Nếu đúng là chủ quyền trên hết, thì
Trung Quốc là kẻ thù số một, Mỹ là bạn hơn tất cả mọi bạn.
Nhưng nếu “chế
độ” thay vào chỗ “chủ quyền” thì cái định nghĩa vưà rồi sẽ
phải viết“người giúp giữ chế độ là bạn, ngược lại là thù”. Trung
Quốc giúp giữ nguyên chế độ độc tài độc đảng, Trung Quốc là bạn,
và Mỹ giúp cho dân chủ hóa đất nước, Mỹ thành kẻ thù. Nếu ổn định
của chế độ độc đảng quan trọng hơn chủ quyền quốc gia, thì bạn là
Trung Quốc, là đảng cộng sản Trung Quốc, và Mỹ, nền tự do dân chủ
Mỹ trở thành kẻ thù, kẻ thù của đảng cộng sản.
Như vậy, chỉ cần biết
Đảng cộng sản Việt Nam hiện đang yêu cái gì, Tổ quốc hay chế độ,
lập tức biết được ngay, Mỹ hay Trung Quốc là bạn.
Nhân quyền và dân
chủ
– Nhân quyền đã bị
gạt sang một bên nhường chỗ cho việc dỡ bỏ lệnh cấm vận. Trần Huỳnh
Duy Thức thay vì được thả vô điều kiện, lại bị truy bức tới mức
phải tuyên bố tuyệt thực vô thời hạn. Nancy Nguyễn và Nguyễn Viết
Dũng bị bắt cóc trước khi tổng thống Mỹ đến. Khách mời cuộc gặp
mặt dân sự với Tổng thống Obama, Tiến sĩ Nguyễn Quang A, người dẫn
đầu phong trào xã hội dân sự Việt Nam hiện nay, bị bắt cóc ngay khi
ra khỏi nhà, chở đi Hưng Yên và “buộc phải đi thăm chùa và ăn canh cá
rô”. Ông chỉ được đưa về nhà vào lúc 13h30, khi cuộc họp với
Tổng thống Mỹ đã kết thúc. Nhà báo Đoan Trang, luật sư Hà Huy Sơn và
blogger Thảo Teresa bị ngăn cản và câu lưu. Tất cả các diễn văn, nội dung
các cuộc trò truyện của Tổng thống OBAM đều bị cắt xén… cho thấy
lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam không hề nhượng bộ Mỹ về các đòi
hỏi nhân quyền, cũng có nghĩa là Mỹ đã bị cộng sản Việt Nam lợi
dụng. Lệnh cấm vận vũ khí được dỡ bỏ mà không được trả giá bằng
nhân quyền, chỉ đơn thuần là “kết quả sự gặp gỡ của lợi ích quốc
gia”, như nhận xét của nhiều nhà quan sát. Đó là cuộc gặp “đồng
sàng, nhưng dị mộng”, của “kẻ cướp và bà già”. Chủ nghĩa thực dụng
đã chiến thắng ý thức hệ. Cả cộng sản Việt Nam và Mỹ không ai kém
thực dụng hơn ai, và cả hai đã cùng thắng.
Thượng nghị sĩ Mỹ,
ông Cornyn đề nghị Quốc hội Mỹ sửa luật để trừng phạt ngay chính
quyền cộng sản Hà Nội, “Ngay cả tại thời điểmTổng thống Obama đến Việt
Nam, điều quan trọng là phải nhớ rằng Việt Nam là một chế độ cộng sản nghiêm
khắc, tiếp tục từ bỏ các quyền con người cơ bản”. Sửa đổi đề xuất biện pháp
trừng phạt và hạn chế nhập cảnh vào Mỹ đối với những công dân Việt Nam, theo
quan điểm của Hoa Kỳ, có các hành vi vi phạm nhân quyền.http://vn.sputniknews.com/politics/20160524/1782980.html
– Nhân quyền phải
tự giành lấy, không ai cho, không thể trông chờ người khác đem lại.
Đúng như vậy, người ta đang chơi trò chơi nhân quyền. Nhưng mọi sự nôn
nóng và cực đoan, tuyệt đối hoá vận động tự thân, cách ly phong trào
với mọi nguồn xung lực không phải là giải pháp cần và đủ để đưa
lại kết quả như mong đợi.
Đấu tranh dân chủ,
trong đó bắt đầu bằng cuộc đấu tranh cho những quyền cơ bản của con
người, là một cuộc đấu tranh dẫn đến sự thay đổi về chất của một
thể chế chính trị, phải là một quá trình bắt đầu bằng chuyển đổi
nhận thức.
Lật đổ một chế độ
bằng bạo lực, kể cả bằng bạo lực tinh thần số đông, cũng không tạo
ra sự thay đổi thực chất và bền vững nếu chưa có đủ sự chuyển đổi
nhận thức. Chưa hiểu một cách đầy đủ hình hài của một chế độ xã
hội phải được hình thành sau lật đổ, thì dân chủ thực sự chưa đến,
thậm chí có thể có một nguy cơ còn tệ hại hơn, đó là sự rối loạn
đảng phái vô chính phủ dẫn đến sự ra đời của chế độ phát xít, tàn
bạo hơn độc tài nhiều lần.
Vì vậy, sự thay
đổi từng bước, hình thành từng phần của mô hình, từ bên trong chế
độ hiện hữu, là quá trình hình thành sự chuyển biến có tính cập
nhật của nhận thức, cùng một lúc với sự hình thành từng bước,
từng bộ phận cơ sở hạ tầng của một xã hội tương lai trong lòng thực
tiễn xã hội hiện tại.Từng bước, tập quán sinh hoạt xã hội mới sẽ
được thiết lập tự thân. Đó là con đường ôn hoà và phù hợp với thực
tế của Việt Nam.
– Sau cấm
vận, Mỹ triển vọng thành nhà đầu tư số một, không phải chỉ có
ý nghĩa kinh tế. Trước hết là sự chiếm chỗ trong không gian. Không
gian có hạn, sự chiếm chỗ của Mỹ sẽ đẩy Trung Quốc ra
ngoài. Đầu tư của Mỹ sẽ pha loãng ảnh hưởng của Trung quốc, giảm
tỷ lệ phụ thuộc vào Trung Quốc của nền kinh tế Việt Nam. Ưu thế công
nghệ và văn hoá quản trị hiện đại sẽ làm lộ rõ chân tướng lạc hậu
và gian dối của doanh nghiệp Trung Quốc và bộ mặt tham nhũng của quan
chức Việt Nam.
Quan hệ mở rộng có
nghĩa là giao lưu mở rộng, sự gắn kết và tuỳ thuộc lẫn nhau,
đòi hỏi sự tương thích hai chiều, sẽ tạo dần sự đồng nhất hóa.
Đầu tiên là thói quen sinh hoạt thay đổi, sau đó sẽ là cấu trúc xã
hội, và tiếp đến là thể chế chính trị, mô
thức của chính quyền. Người Việt Nam có câu ngạn
ngữ «đi với Bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo
giấy». Xét trên thang phát triển tổng thể, đặc biệt về tư duy
nhân văn, thì Trung Quốc còn cách xa Mỹ có thể cả nửa thế kỷ, thậm
chí hơn.
– TPP đòi hỏi
đồng nhất hoá nhận thức các khái niệm về giá trị và tập quán
quốc tế, điều chỉnh tiến tới đồng nhất hoá luật pháp, bắt đầu từ
những quy định luật pháp liên quan tới hoạt động kinh doanh. Nhu cầu
tăng cường khả năng cạnh tranh quốc gia và mục tiêu lợi nhuận, ép
buộc hệ thống luật pháp quốc gia phải điều chỉnh dần theo hướng
đồng nhất hoá với hệ thống luật của các nước thành viên, các nước
này, trong TPP đều là các quộ́c gia dân chủ mà hệ thống pháp luật
có căn cứ chủ yếu trên nguyên tắc Tam quyền phân lập, tự do cá nhân
và sở hữu tư nhân. Chế độ lương tối thiểu và quyền được có công
đoàn độc lập, quyền tự vệ của người lao động là xuất phát từ những
yêu cầu đồng nhất hoá luật lao động phổ biến ở tất cả các nước
công nghiệp phát triển.
Ông OBAMA
nói, “Gỡ bỏ cấm vận vũ khí nhằm mục đích thay đổi bản chất mối quan hệ
hợp tác giữa hai nước. Tất nhiên là chúng tôi cũng còn có nhiều quan điểm chưa
thực sự thống nhất. Chúng tôi quan tâm đến các cam kết của Việt Nam trong TTP
như cải cách luật pháp, cải thiện tiêu chuẩn lao động..”.
Như vậy, suy cho
cùng, việc dỡ bỏ lệnh cấm vận tạo ra các xung lực từ bên trong,
cùng với áp lực của phong trào xã hội dân sự, hình thành thế trận
“nội công, ngoại kích”.
Liên minh là tất
yếu
– Nếu chỉ thấy ở
việc dỡ bỏ lệnh cấm vận liên quan tới việc cho phép Việt Nam mua vũ
khí Mỹ để đối phó với Trung Quốc thì có phần ảo tưởng. Mua gì, mua
bao nhiêu thì khả dĩ đối phó được với Trung Quốc. Không, nếu vẫn
đơn độc một mình thì chỉ khi sở hữu vũ khí hạt nhân,
Việt Nam mới tránh được một cuộc chiến tranh tiêu diệt. Chỉ chạy đua
vũ khí thông thường, thì dẫu VN giành toàn bộ GDP cũng chỉ
bằng kinh phí giành cho quân sự hàng năm của Trung Quốc.
Tiến sĩ Trần Công
Trực báo GDVN: «Mặt khác về mặt kỹ thuật, nhiều chuyên gia trong
và ngoài nước cũng đã cho rằng, hơn 90% vũ khí trong biên chế Quân
đội Nhân dân Việt Nam hiện nay là của Nga, nên ý nghĩa giao dịch thương
mại của việc dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận vũ khí sát thương với
Việt Nam không nhiều.
Còn một khi độc
lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam bị đe dọa, người
Việt sẽ làm mọi việc để chống lại các thế lực xâm lược, và đến
lúc đó liên minh chống xâm lược tự nó sẽ hình thành. Lịch sử chiến
tranh cận hiện đại đã cho thấy rõ điều này nên thiết nghĩ không cần
đặt vấn đề đồng minh, liên kết».
Trung tướng Lê
văn Cương Cần nói thẳng chơi bài ngửa với Trung
Quốc : “VN không liên minh với Mỹ để chống TC,
nhưng Việt Nam cần sức mạnh của Mỹ để răn đe mọi thế lực ngoại bang
muốn xâm lược VN.”
Cho nên, thực chất
chờ đợi ở quyết định dỡ bỏ cấm vận không hoàn toàn nằm ở việc mua
sắm vũ khí. Nó nhắm một mục đích cao hơn, là mở rộng cánh cửa cho
mối quan hệ hợp tác mỗi ngày một chặt chẽ gắn kết hơn, để tiến
tới một liên minh.
Trong một khả năng
xảy ra chiến tranh, tức là trong tình huống Việt Nam gặp nguy cơ đe
dọa an ninh chủ quyền, thì hợp tác an ninh hàng hải ở mức hiện tại
giữa hai nước, chỉ dừng ở mức tuần tra chung, cứu trợ thiên tai,
chống khủng bố hay các tình huống an ninh phi truyền thống… không đủ
để đáp ứng đòi hỏi của Việt Nam. Một Hiệp định an ninh chung phải
được ký kết ràng buộc trách nhiệm bảo vệ an ninh cho mỗi bên. Hiệp
ước như vậy sẽ có thể là một bước tiếp của “Hiệp định khung hoà
bình” Việt Mỹ đã được ký trong chuyến đi này, ngay sáng ngày
24/05/2016 tại Hà Nội.
Dù thế nào, thì
lịch sử Việt Nam cũng đã đi lên một bước, về hướng bình minh. Có
thể vì thế mà chúng ta có quyền tự cho phép mình ăn mừng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét