Thứ Năm, 20 tháng 6, 2019

Lãnh đạo Việt Nam lộ rõ lo sợ đối với mạng xã hội


Thanh Trúc
2019-06-18

Biểu tượng của mạng xã hội Facebook. AFP
“Truyền thông xã hội là một ‘mặt trận’ ngày càng phức tạp, mở rộng mà các thế lực thù địch đang lợi dụng để thúc đẩy các ‘yếu tố cách mạng sắc màu ở Việt Nam’”.
Đó là tóm tắt nguyên văn nhận định và đúc kết bài xã luận của ông Võ Văn Thưởng, ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương đảng kiêm Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương.
Với tựa để “Truyền Thông Xã Hội Đối Với Chính Trị, Xã Hội ở Việt Nam”, bài xã luận được đưa ra trong buổi lễ khai trương Hệ Thống Thông Tin Tuyên Giáo Trên Mạng Internet, gọi tắt là VCNET, hôm 11 tháng Sáu vừa qua.
Trao đổi với RFA qua tin nhắn hôm 11 tháng Sáu, luật sư Đặng Đình Mạnh trong tư cách người Việt Nam có sử dụng mạng xã hội, nói rằng ông hoan nghênh sự ra đời của mạng xã hội Việt Nam, cho dù là của Ban Tuyên Giáo Trung Ương hay của tổ chức nào khác ở Việt Nam. Tuy nhiên, ông trình bày tiếp:
Với những tiện ích mà mạng xã hội Facebook hiện đang cung cấp cho người sử dụng thì tôi chưa hình dung ra được khả năng mạng VCNet có làm được như vậy hay không? Và cũng như bất kỳ mạng xã hội nào đã từng tồn tại, thì người sử dụng sẽ quyết định sự sống còn hoặc phát triển của nhà mạng.
Đối với VCNet, có thể người dùng mạng xã hội e ngại và cho rằng đây là nỗ lực kiểm soát của chính quyền. Thật ra, người dùng Facebook ở Việt Nam vẫn đang bị chính Facebook kiểm duyệt khá gắt gao như chính chính quyền Việt Nam đấy thôi.
Tôi cũng có thắc mắc với cái tên VCNet? Có phải là viết tắt của Viet Cong Net?”
Đại úy Võ Minh Đức, từng theo học chuyên ngành sĩ quan tuyên truyền, thuộc Quân đội Nhân dân Việt Nam, hiện đã giải ngũ và đang ở Sài Gòn, cho biết:

Theo tôi, ngoài nỗ lực tăng cường kiểm soát, họ muốn tuyên truyền trên không gian mạng càng nhiều càng tốt. Ngoài lực lượng 47, theo tôi, họ sử dụng thêm cái này để định hướng, dẫn dắt dư luận quần chúng. Trước đây tôi từng học chuyên ngành tuyên truyền, theo tôi đây là một thủ đoạn, biện pháp, để tuyên truyền, mị dân. Theo tôi đại đa số người dân, có thể vì miếng cơm manh áo họ không muốn lên tiếng, hay họ muốn an phận nên không biểu hiện ra thôi. Chứ còn niềm tin về chế độ này đã bị mai một nhiều, thậm chí ở một bộ phận dân chúng, gần như không còn, chỉ còn những người có quyền lợi, bổng lộc thì họ mới theo. Nên tôi nghĩ sẽ không thu hút người dân vào cái mạng này được.
Đến ngày 17 tháng Sáu 2019, báo chí trong nước  đồng loạt đăng tải lại bài của ủy viên Bộ Chính trị Võ Văn Thưởng vào lúc khai trương Hệ Thống Thông Tin Tuyên Giáo Trên Mạng tức VCNET:
Mở đầu bằng những viện dẫn về “Phong Trào Áo Vàng” đã gây khủng hoảng triền miên trong suốt thời gian qua ở nước Pháp, ông Võ Văn Thưởng lần lượt nêu thêm cũng như chú thích về những sự kiện thế giới mà ông cho là bị tác động bởi truyền thông xã hội. Ông gọi đó là  các cuộc cách mạng màu hay các cuộc biểu tình bạo động, thí dụ Cách Mạng Nhung Nam Tư năm 2000, Cách Mạng Hoa Hồng ở Gruzia năm 2003, Cách Mạng Cam tại Ukraina năm 2004, Cách Mạng Hoa Tulipe năm 2005, Mùa Xuân Ả Rập ở Tunisia, Ai Cập năm 2010 lan tỏa sang Libya, Syria năm 2011, cho đến những biến động chính trị, xã hội gần đây tại Hy Lạp, Venezuela, Thổ Nhĩ Kỳ, Tây Ban Nha , Áo, Pháp.
Tuy nhiên bài viết thể hiện sự phiến diện, tức chỉ nhìn thấy mặt tiêu cực của mạng xã hội, cụ thể là tin giả, mà không đề cập đến mặt tích cực của mạng  xã hội là thông tin sự thật và phản biện sự thật mà mạng xã hội đã làm rất tốt trong nhiều năm qua.
Nhà báo độc lập Phạm Chí Dũng
  
Ông Võ Văn Thưởng cho rằng chính truyền thông xã hội đã châm ngòi, thổi bùng những cuộc cách mạng màu ấy bằng kích động, tổ chức và thông tin, biến những hành động ban đầu là phong trào đường phố thành những vụ bạo động mà hệ quả là sự suy yếu nhanh chóng của các chế độ ở Đông Âu, Trung Đông, Bắc Phi, Mỹ La Tinh.
Truyền thông xã hội, tin giả đã trở thành từ khóa, trưởng Ban Tuyên Giáo Trung Ương Võ Văn Thưởng nhấn mạnh, khiến người ta liên tưởng tới những cuộc xuống đường bạo động làm cả Châu Âu, và thế giới đứng ngồi không yên suốt thời gian qua. Tình trạng như vậy cũng xảy ra ở Hoa Kỳ với những cuộc biểu tình chiếm đóng phố Wall năm 2011 khiến các chính trị gia Mỹ đã nêu đích danh Facebook và Twitter là thủ phạm, là công cụ của bạo loạn.
Ông Võ Văn Thưởng chỉ trích truyền thông xã hội đã bộc lộ những tác động tiêu cực, ẩn chưa những nguy cơ phức tạp, khó lường, thậm chí có khả năng gây chia rẻ sâu sắc, kích động hận thù trong các cộng đồng xã hội, nhất là ở các quốc gia đa sắc tộc, tôn giáo.
Từ những cáo buộc như vậy, ông quay sang chỉ trích vai trò của truyền thông xã hội, nói rõ hơn là các trang mạng xã hội ở Việt Nam, sau hơn 20 năm Internet có mặt với trên 60 triệu người sử dụng.
Điểm mặt những tác nhân KOLs (Key Opinion Leader) và Influencers, gọi đây là những người có “thương hiệu” hoặc là “người bình thường” nhưng thông tin hay quan điểm đưa ra đã tạo sức hút và ảnh hưởng, lại còn được cư dân mạng khuếch tán , chia sẻ nhanh rộng trên mạng.
Những KOLs và Influencers đó bị ông Võ Văn Thưởng liệt vào tầng lớp những kẻ “lạm dụng chữ nghĩa”, ảo tưởng “quyền lực bàn phím”, có động cơ không trong sáng, nền tảng văn hóa thấp, bất mãn chế độ và thậm chí từng vi phạm pháp luật nhưng lại biết khơi gợi “những cảm xúc xấu xa”.
Tóm lại, theo như trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Võ Văn Thưởng viết trong bài xã luận, truyền thông xã hội tốt thì ít mà xấu thì quá nhiều vì gieo rắc tư tưởng cực đoan, tạo bất đồng, xung đột trong nội bộ đảng và nhân dân.
Chưa hết, ông Võ Văn Thưởng còn viện dẫn và chú thích nguồn từ bài viết có tên Hiểm Họa Từ Mặt Trái của Internet, được phổ biến trong Cục Tuyên Huấn, Tổng Cục Chính Trị Quân Đội Nhân Dân Việt Nam, Trung Tâm Thông Tin Khoa học Quân sự, Bộ Quốc phòng, để chỉ trích rằng truyền thông xã hội là một dòng chảy thông tin, lạm dụng Internet và điện thoại di động để kích động và châm ngòi cho những cuộc xuống đường dẫn đến bạo loạn.
Từ Sài Gòn, ông Phạm Chí Dũng trong tư cách nhà báo độc lập, nhận xét rằng đây là chiến thuật cũng như chiến lược đối phó với truyền thông xã hội mà ông gọi chung là mạng xã hội:
Đây có lẽ là một trong những bài hiếm hoi có hàm lượng thông tin và kỹ thuật tương đối sâu về mạng xã hội so với những bài trước đây. Bài viết dựa trên cơ sở tham khảo những tài liệu báo cáo của Bộ Thông Tin- Truyền Thông. Những báo cáo này có từ lúc có tân bộ trưởng Bộ Thông Tin- Truyền Thông Nguyễn Mạnh Hùng là thiếu tướng từ bên quân đội chuyển sang.
Tuy nhiên bài viết thể hiện sự phiến diện, tức chỉ nhìn thấy mặt tiêu cực của mạng xã hội, cụ thể là tin giả, mà không đề cập đến mặt tích cực của mạng  xã hội là thông tin sự thật và phản biện sự thật mà mạng xã hội đã làm rất tốt trong nhiều năm qua. Bài viết cho thấy đảng cộng sản Việt Nam đã chính thức nhìn nhận mạng xã hội là một thế lực chính trị không thể bỏ qua, họ thật sự lo sợ về mạng xã hội.
Bài xã luận phản ảnh sự sợ hãi của đảng và Nhà Nước cộng sản đối với các mạng truyền thông xã hội không nằm trong tầm kiểm soát của họ, là nhận định của ông Nguyễn Khắc Mai, nguyên vụ trưởng Vụ Nghiên cứu, Ban Dân vận Trung ương đảng cộng sản Việt Nam. Ông cũng là tác giả bài Tự Do Báo Chí: Nhu Cầu Hiện Đại Của Dân Tộc Việt Nam, đăng trên mạng Bauxite và mạng Tiếng Dân hôm 17 tháng Sáu:
Họ sợ cái cái minh bạch, cái thức tỉnh, cái hiểu biết và sợ sự thật được phơi bày. Họ đổ lỗi cho truyền thông xã hội, nói là gây ra tiêu cực, chống đối, bạo loạn… nhưng họ quên rằng ngay ông tổ sư của họ là ông Mác từng nói những vấn đề bức xúc, bất công, mâu thuẩn, bất cập và tiêu cực trong xã hội mà chính quyền gây ra đã tạo bất mãn bất bình trong xã hội.
Ông Võ Văn Thưởng không biết rằng Phong Trào Gilets Jaunes (Áo Vàng) bên Pháp xuất phát từ vấn đề đời sống, xã hội, sự phát triển, sự hài hòa, sự cân đối mà chính sách và chính phủ Pháp không  giải quyết được. Cho nên dân Pháp mới dùng truyền thông xã hội để truyền cho nhau thông tin và giục giã nhau đứng đậy phản đối. Vì thế mà tổng thống Macron mới nói rằng từ những phản đối của xã hội thì ta hãy cùng nhau bình tĩnh và bàn thảo để tìm ra giải pháp.
Đó là thái độ khôn ngoan của một nhà cầm quyền có văn hóa, nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai nhấn mạnh, so với phản ứng chê bai chỉ trích gay gắt từ phía lãnh đạo Việt Nam:
Cộng sản là luôn luôn đánh tráo khái niệm, họ đánh lừa dân, họ sợ hãi truyền thông xã hội, họ biết sức mạnh của truyền thông xã hội nó thức tĩnh lòng người, cho nên họ mới đổ riệt tội cho truyền thông xã hội như vậy.
Sau mọi cáo buộc được cho là liên tục và ào ạt ném vào các mạng truyền thông xã hội, bài xã luận của ông Võ Văn Thưởng liền nhắc đến Luật An Ninh Mạng có hiệu lực từ đầu 2019. Ông nói phải tích cực triển khai Luật An Ninh Mạng với các chế tài để mạnh để răn đe, xử lý những trang mạng có ý xuyên tạc, phát tán tin giả gây hại cho Nhà Nước.
Ông khẳng định các báo trong nước, mà ông gọi là báo chí cách mạng, phải phát huy vai trò chủ động, tiên phong, dẫn dắt, định hướng trong thông tin tích cực, phải khẳng định hơn nữa vai trò, vị thế của mình trong thời đại kỹ thuật số, rằng báo chí cách mạng vẫn là dòng thông tin chủ lưu, chất lượng, chính xác, kịp thời, khách quan, là bộ lọc đáng tin cậy về mọi vấn đề xã hội.
Họ sợ cái cái minh bạch, cái thức tỉnh, cái hiểu biết và sợ sự thật được phơi bày. Họ đổ lỗi cho truyền thông xã hội, nói là gây ra tiêu cực.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai
  
Ông Lê Phú Khải, phóng viên kỳ cựu Đài Tiếng Nói Việt Nam VOV, hiện đã về hưu, cho rằng bài xã luận với phần lớn nội dung công kích truyền thông xã hội cho thấy sự thất bại của truyền thông lề phải trước sự hiện diện của truyền thông xã hội:
Trước đây báo lề phải nói cái gì người dân đều nghe, nhưng bây giờ người ta thấy truyền thông xã hội đưa ra sự thậttham ô, cướp đất cướp nhà của dân như thế, Luật Đất Đai của anh như thế người ta đưa ra rất rõ ràng, Nhà Nước không chối cãi được.
Một thí dụ cụ thể được nhà báo Lê Phú Khải kể tiếp:
Thành phố Hồ Chí Minh này nhân dân biểu tình một tháng rồi mà báo Tuổi Trẻ ở ngay bên cạnh không đưa tin nhưng mạng xã hội thì có. Sự thất bại của báo lề phải đã rõ ràng, in xong rồi cho không người ta cũng không đọc. Báo Nhân Dân, báo Quân Đội, báo Sài Gòn Giải Phóng để trên máy bay phát không cũng không ai lấy, giờ lại bày ra trò này trò khác. Tôi lấy một tờ báo Nhân Dân ngồi đọc, người ta nhìn tưởng tôi đến bốn mươi hay năm mươi tuổi đảng, chỉ có cái ông dở hơi này mới đọc báo Nhân Dân, thế thôi.
Vẫn theo lời ông, việc phải thành lập VCNET Hệ Thống Thông Tin Tuyên Giáo Trên Mạng Internet, kèm với bài xã luận của trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Võ Văn Thưởng trên các báo lề phải chẳng qua là biện pháp mà cũng là nỗ lực của đảng và Nhà Nước Việt Nam trong việc ngăn chặn các mạng xã hội mà người dân tin tưởng.
Việt Nam là một quốc gia có chính trị, xã hội ổn định và trên đà phát triển, tuy nhiên vẫn tiềm ẩn những nguy cơ gây mất ổn định, là câu kết của ông Võ Văn Thưởng.
Chính vì thế, ông viết tiếp, tạo lập môi trường thông tin, lành mạnh, an toàn trong đó truyền thông xã hội là một trong những nguồn lực thông tin quan trọng, góp phần tích cực, hiệu quả, bảo vệ, gìn giữ môi trường chính trị, xã hội ổn định, làm nền tảng cho đất nước phát triển bền vững.
Hơn lúc nào hết, cũng như nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai, nhà báo Lê Phú Khải đoan quyết Việt Nam cần phải chấp nhận một mạng lưới thông tin tự do, thông thoáng, một nền báo chí độc lập không bị ràng buộc và không theo chỉ thị của bất cứ quyền lực nào:
Không thể chống lại qui luật, không thể chống lại những cải cách chính trị, nó là nhu cầu bức thiết, nhu cầu sống còn của xã hội nếu có tự do báo chí.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai thì nhân dịp này nhắc đến Ngày Báo Chí Việt Nam 21 tháng Sáu đang gần kề mà bao năm không có sự thay đổi:
Thế nào là nhu cầu của báo chí hiện nay? Họ đang làm ngược lại mong ước của dân tộc, đang phản bội lại những nhu cầu văn minh hiện đại mà một dân tộc cần có để có thể sống tốt và phát triển tốt trong thời đại hiện nay.
Còn theo nhà báo độc lập Phạm Chí Dũng, cho dẫu cái nhìn và quan điểm của nhà nước và của đảng cộng sản về truyền thông xã hội như thế nào đi nữa thì cũng không có sức thuyết phục vì quá bảo thủ, quá lạc nhịp mà còn vi phạm quyền được thông tin, quyền thể hiện và tự do biểu đạt trong Công Ước Quốc Tế Về Chính Trị Và Quyền Dân Sự mà Việt Nam đã ký kết năm 1982.
T.T.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét