GS Sử học - Trần Quốc Vượng (1934 - 2005).
Nước Việt Nam ta hiện là một
quốc gia kém phát triển về mọi mặt, vừa lạc hậu, vừa lạc điệu với một thế giới
nhìn chung đã và đang phát triển rất nhanh, đặc biệt từ nửa sau thế kỷ 20.
Tạm bỏ qua một bên mọi sự
“giải thích”, nào đổ tội cho phong kiến đế quốc, thực dân, bành trướng, thiên
tai, địch họa, chiến tranh, cách mạng; nào viện dẫn sai lầm chủ quan của những
người cầm nắm vận mệnh quốc gia mấy chục năm qua, v.v… tình trạng ấy là không bình
thường, gây nên một bức xúc tâm lý, một nỗi đau thân thể, một nhức nhối thân
xác và tâm linh, buộc KẺ SĨ và NGƯỜI DÂN, vừa gian khổ kiếm sống, vừa suy nghĩ
đêm ngày, tìm cách khắc phục và vượt qua tình trạng tủi nhục này…
Có ĐỘC LẬP rồi chăng, nhưng
hoạ LỆ THUỘC vẫn luôn luôn mai phục, cả về mô hình chính trị và sự phát triển
kinh tế…
Có THỐNG NHẤT rồi chăng,
nhưng mầm CHIA RẼ mọc rễ sâu xa…
Điều chắc chắn, là NHÂN DÂN
chưa có HẠNH PHÚC, TỰ DO thực sự.
Với biết bao hệ lụy của một
cuộc chiến kéo dài, buộc ràng tới 3 thế hệ người Việt Nam (và rất nhiều quốc
gia liên đới), lạ một điều (mà sao lại là lạ nhỉ ?), là từ “người thua” đến “kẻ
thắng”, giờ đây, ai ai cũng mang một mặc cảm hoành đoạt (complexe de
frustration), nói nôm na là MẤT MÁT.
Trước hết là NGƯỜI DÂN
THƯỜNG.
Người ra đi hàng triệu, bỏ
xác ngoài biển khơi hàng ngàn, vạn, biết bao em gái ta, chị ta, cả mẹ ta nữa…
bị kẻ hải tặc khốn kiếp dày vò làm nhục!
Chưa nói đến của cải, ai còn
sống thì đều cảm thấy mất quê hương!
Người ở lại, hàng chục triệu nông
dân bỗng dưng cảm thấy mất đất, không có quyền tự do hành xử trên “mảnh đất ông
bà”, trong khuôn viên do chính tay mình tạo dựng; hàng triệu công nhân mất
việc, thất nghiệp hay bị kém sử dụng (sous-emploi), sống ngất ngư, lay lắt qua
ngày…
Trí thức, thì tản mác, bị
lãng phí thảm hại, trừ một số rất ít kẻ xu thời (đời nào chẳng có?), người nào
cũng cảm thấy mất tự do tư tưởng và sáng tạo.
Một tình trạng như thế, chỉ có lợi cho lũ gian manh. Một cuộc “đổi đời” kỳ cục như thế, mà nếu cứ nhất định muốn gọi nó, muốn gọi đó, là “cách mạng”, thì là một cuộc cách mạng đã mất phương hướng. Phương hướng là cái tiêu ngữ trên mỗi đầu trang giấy...
Cho nên phải nghĩ lại, phải
bình tâm mà nghĩ lại, nói theo thời thượng từ giữa thập kỷ 80, là phải ĐỔI MỚI
TƯ DUY.
Tư duy là công việc của mỗi
CON NGƯỜI, vì về bản chất, con người là một sinh vật có tư duy, có ý thức và vì
có tư duy, có ý thức mà được / phải có quyền tự do lựa chọn mô hình hành động,
cho chính mình (tự do cá nhân), cho chính cộng đồng mình (nhà mình, làng mình,
nước mình…) và phải / được chịu trách nhiệm về chính sự lựa chọn đó.
Tôi rất thân và rất quí
Nguyễn Huy Thiệp, hẳn thế, nhưng chính vì thế mà tôi không thể nào đồng ý với
anh khi anh trả lời phỏng vấn báo Libération là “Tôi đã sống như một con thú“. Con
thú làm sao mà biết viết, biết in “Tướng về hưu”, “Phẩm tiết”…?
Lẽ tất nhiên là tôi hiểu cái
“ý tại ngôn ngoại” của anh: Cái mặt bằng kinh tế xã hội của một Việt Nam hiện
nay trên đó “anh phải sống”, sự ràng buộc của “cơ chế”? v.v…
Tôi nhớ lại, ngày 12/01/1983,
trong buổi họp kỷ niệm 40 năm ra đời “Đề cương Văn hoá Việt Nam”, ông tác giả
chính của cái “Đề cương” đó đã nói với các “nhà khoa học xã hội” Việt Nam: “Nếu
không có một điều kiện tối thiểu về vật chất để sinh sống thì con người có thể
trở thành con thú! ”.
Điều đó chẳng có gì mới lạ,
vì bằng kinh nghiệm nghiệm sinh, nhiều nhà trí thức chúng tôi đã nghĩ và nói
thế từ lâu. Điều mới và lạ, là cho đến tận lúc ấy, một vị lãnh đạo cao cấp của
đảng Cộng sản Việt Nam mới nói ra như thế!
Mà con người, nhất là người
trí thức Việt Nam, đâu chỉ đói rét vì miếng cơm manh áo? Đói tự do tư tưởng
cũng có thể trở thành con thú!
Vì con thú, như con trâu, con
bò, dù có no cỏ thì cũng chỉ biết theo đuôi! Theo đuôi con đầu đàn!
Bao năm qua, có biết bao con
người Việt Nam chỉ biết theo đuổi kẻ cầm quyền, hoặc khốn khổ thay, là chỉ được
theo đuôi người lãnh đạo và lại được “khen” là “có ý thức tổ chức, kỷ luật” và
vì vậy được vào Đảng, được “đề bạt” làm kẻ “cầm quyền” bậc sơ trung cấp, để,
nói cho cùng, cũng chỉ thành kẻ “chấp hành”, “thừa hành”, nhưng có được chút
“quyền”: Dối trên và nịnh trên, lừa dưới và nạt dưới!
Tôi nhớ lại, khoảng mười năm
trước đây, một người học trò và là bạn trẻ của tôi, trước khi đi Nga làm luận
án Phó tiến sĩ sử học, trong buổi “tiệc bia” tiễn biệt thầy trò, bè bạn, đã ngỏ
với tôi lời “khuyên” tâm sự: – Nếu như thầy mà cũng “đầu hàng cơ chế” nữa là
bọn em mất nhờ đấy!
Anh ấy ở Nga 4 năm, về nước
với bằng xanh phó tiến sĩ, thẻ đỏ đảng viên và, gia nhập “cơ chế”, trở thành
“người lãnh đạo” của tôi hôm nay! Tôi chẳng buồn mà cũng chẳng vui. Tôi chọn
lựa cho mình một hướng đi: Gia nhập “Câu lạc bộ những người thích đùa”. Tôi
thường nói đùa như người Hà Nội vẫn thường đùa, anh ấy: Cậu là đảng viên nhưng
mà tốt!,
Câu nói đùa, mà “nghe ra ngậm
đắng nuốt cay thế nào” và hơn nữa, với câu nói ấy, có thể bị “quy chụp” là
“phản động”.
Tôi có một anh bạn, phải nói
là rất thân, học với nhau từ thuở “hàn vi”, lại cũng làm việc dưới một mái
trường Đại học trên ba chục năm trường, cùng “leo thang” rất chậm, từ “tập sự
trợ lý” đến full professor, chair-department. Anh là con “quan lớn”, em của
“nguỵ lớn” nhưng “có đức có tài”, được chọn làm “hàng mẫu không bán – kiểu như
ông Bùi Tín vừa làm ồn ào giới truyền thông một dạo, nhưng khác ông ta là cho
đến nay anh không gửi “kiến nghị” kiến nghiếc gì, nói năng với TRÊN, với DUỚI
bao giờ cũng “chừng mực”, chẳng “theo đuôi” mà cũng chẳng là “dissident” của
chế độ.
Anh thường bảo tôi: Thì về cơ
bản cũng nghĩ như cậu thôi. Nhưng cậu thông cảm, mỗi người một tính một nết, một
hoàn cảnh. Cậu “thành phần tốt”, ăn nói táo tợn thì quá lắm người ta chỉ bảo
cậu là “bất mãn cá nhân” thôi. Tớ “thành phần xấu”, ăn nói bằng 1/10 cậu thôi
cũng đủ bị “quy” là “phản ứng giai cấp” rồi!
O.K.! Anh cứ sống kiểu anh,
tôi cứ sống kiểu tôi. Chỉ có mỗi một điều thôi, là vì vậy và vì nhiều lý do sâu
xa khác nữa, nên nước ta chỉ có những nhà trí thức (intellectuals) chứ không có
giới trí thức (intelligentsia).
Vậy thua thiệt thì Dân ráng
chịu!
Bi kịch, nỗi bất hạnh của trí
thức Việt Nam, của nước Việt Nam là ở đó…
***
Báo Đoàn Kết của một cộng
đồng người Việt Nam bên Pháp đưa tin: Vào cuối năm ngoái (1990), có một ông uỷ
viên kiêm bí thư thường trực Trung ương đảng Cộng sản Việt Nam, nhân sang Paris
dự Đại hội đảng Cộng sản Pháp, có tập hợp Việt kiều lại để nói chuyện. Trong
khoảng 2 tiếng, ông chỉ “nói” mà không “nghe”, lại còn bảo: “Sống ở nước ngoài,
biết gì chuyện trong nước, tuổi 40-50 trở xuống (nghĩa là vào hạng tuổi con
cháu ông) biết gì mà góp ý kiến!“
Xem chừng bà con Việt kiều,
nhất là anh chị em “trí thức”, bực mình với ông lắm.
Tôi là “trí thức” ở trong
nước, ở Hà Nội nữa, nghe những lời lẽ ấy “quen tai” rồi. Cũng ông ấy, lúc còn
làm “Bí thư thành uỷ” Hà Nội, khi thấy báo “Quân Đội Nhân Dân” 1987 công bố
“Bức thư ngỏ gửi ông chủ tịch thành phố Hà Nội” của tôi, nói về việc “Phá hoại
các di tích lịch sử của Thủ đô” đã cho triệu tôi lên trụ sở Thành uỷ và “thân
mật” bảo ban 2 điều:
- Nếu anh là công nhân, anh
nói (nôm na, tục tằn) kiểu đó tôi còn hiểu được, đằng này anh là giáo sư, là
trí thức, sao lại nói (nôm na, “toạc móng heo, treo móng giò”) kiểu đó ?
- Nếu anh nói thế, “tôi” thì
“tôi” nghe được, nhưng những “người khác”, họ không nghe được! Từ nay anh nên
“thay đổi” cái “giọng nói” của anh đi!
Tôi cũng “trả lại ông” 2
điều:
- Đảng bảo: “Trí thức là của
Công Nông và cũng là Công Nông”, vậy nếu công nhân – theo ông – nói được như
vậy thì trí thức cũng nói được như vậy. Có gì (theo ông) là khác nhau giữa
giọng “trí thức” và giọng “công nhân” ?
- Ông không khác gì người
khác. Nếu theo ông, ông “nghe được” vậy thì người khác cũng phải nghe được. Vậy
tôi chả việc gì phải “đổi giọng” cả!
Thực ra, tôi biết thừa cái
“giọng tôi” chính ông nghe không được nên ông mới “góp ý” cho tôi, nhưng ông
lại cố tình đổ cho là người khác nghe không được. Hơn nữa ông lại cố tách “tôi”
ra khỏi công nhân, “đề cao” tôi là “trí thức”, để chỉ cốt răn dạy tôi: Với vị
thế của anh, anh không được ăn nói với chúng tôi (những nhà lãnh đạo) bằng cái
giọng như vậy!
Bà xã tôi lúc ấy còn sống và
là giáo viên trường Trung học Trưng Vương nổi danh ở Hà Nội – nghe tin tôi được
/ bị phải gọi lên thành uỷ, lấy làm lo lắng lắm, bảo tôi (“giọng” bà ấy bao giờ
cũng vậy, con gái nhà “tư sản Hà Nội” mà): – Anh lên đấy, liệu mà ăn mà nói!
Anh có sao, chỉ khổ vợ con!... Một con én chẳng làm nổi mùa xuân, “ăn cái giải
gì” mà cứ nói, chỉ khổ vào thân; có cái giấy Úc mời sang kỷ niệm 200 năm nước
“nó” đấy, khéo các “bố” ấy lại không cho đi, vợ con lại mất nhờ.
Ôi, làm “thằng người Việt
Nam”, làm “trí thức Việt Nam” biết bao là “hệ luỵ”.
Tôi đưa chuyện HỌC TRÒ, BÈ
BẠN, VỢ CON dàn trải trên mặt giấy đâu phải để “nói xấu” họ, nhất là nói về vợ
tôi (nay đã mất, cầu cho linh hồn bà ấy tiêu diêu miền cực lạc) mà trong tâm
khảm tôi, bao giờ tôi cũng cảm thấy mình xấu tính hơn bè bạn – vợ con – học trò.
Tôi chỉ muốn nói về thân phận trí thức ở cái nước Việt Nam mang cái nhãn hiệu
Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa mà thực ra là còn đang rất kém phát triển này: Ông uỷ
viên ấy, kiêm bí thư Trung ương này, kiêm bí thư thành phố này… ai chả nghĩ là
ông ấy cộng sản hơn ai hết nhưng thực ra thì ứng xử của ông ấy từ Hà Nội đến
Paris lại “gia trưởng”, “nho giáo cuối mùa” hơn ai hết!
Khổ vậy đó, Cho nên giáo sư
Alexander Woodside, từ góc trời tây bắc của xứ tuyết Canada mới hạ một câu về
cách mạng Việt Nam: “The spiritual and cultural milieu from which the
vietnamese revolution sprang was both confucian and comunist” (Cái môi trường
tâm linh và văn hoá mà từ đấy cách mạng Việt Nam phóng tới là cả Khổng Nho và
Cộng sản).
***
Ông giáo sư Từ Chi một trong
những bạn bè thân thiết của tôi từ một “cậu Tú” ở Huế đi Nam tiến ngay sau ngày
23/9/1945 và trở thành cộng sản, rồi năm 1954 trở về học đại học để trở thành
một nhà dân tộc học.
Ông đi làm chuyên gia ở Tây
Phi, thương một người con gái Hà Nội nhà nghèo vì chiến tranh mà lưu lạc mãi
sang tận bờ sông Niger. Ông quyết đưa người phụ nữ bất hạnh đó trở về Tổ quốc
chỉ bằng cách kết hôn với nhau, dù ông biết trước rằng hành động dấn thân ấy
ông sẽ phải về nước trước thời hạn.
Và cho đến 25 năm sau, ông
không bao giờ được ra nước ngoài, dù ông, không có bất cứ một hành vi gì phạm
pháp. Cái án được phán quyết không theo “Luật hôn nhân và gia đình” của nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban hành năm 1960, mà là theo đạo lý hủ Nho.
Về nước năm 1965, qua ngã
Moscow, ông dừng chân ở đó 5 ngày, về Hà Nội gặp tôi ở quán cà phê Sính, ông rỉ
tai tôi: “Chế độ Xô Viết không thể nào viable” (nguyên văn có nghĩa: không thể
“thọ” được).
Đấy là lời tiên tri đúng
trước 1/4 thế kỷ!
Vì sao NƯỚC và ĐẢNG có những
người trí thức giỏi đến thế mà bây giờ cả NƯỚC, cả ĐẢNG đều lâm vào tình huống
“khủng hoảng toàn diện”?
Từ năm 1965, cứ mỗi lần nghe
thấy lời khuyến dụ tôi vào Đảng, ông lại bảo tôi: – Tùy ông đấy, nhưng… nếu ông
có vào thì đừng để người ta đuổi ông ra! Ông biết kỷ luật của Đảng ông là “kỷ
luật sắt” mà tôi thì ông cũng biết quá rõ tôi là người “tự do”, tính ưa phóng
khoáng, là người “bất cơ” (không chịu ràng buộc) theo chữ dùng để đánh giá mình
của nhà sử gia họ Tư Mã bên Tàu!
Tôi hỏi ý kiến ông về tính
chất Cách mạng Việt Nam. Ông trả lời: Cụ Hồ bảo nước mình là một nước nông
nghiệp, dân tộc mình là một dân tộc nông dân. Cứ đấy mà suy, thì cuộc “Cách
mạng” bây giờ hẳn vẫn là một cuộc khởi nghĩa nông dân.
Khác chăng là trước, khởi
nghĩa nông dân do một số nhà nho xuất thân nông dân như Quận He, như Cao Bá
Quát cầm đầu, bây giờ là do những người cộng sản cũng xuất thân ở nông thôn và
có căn tính nhà nho, như cụ Hồ, như ông Trường Chinh… lãnh đạo. Ông đọc bài ông
Nguyễn Khắc Viện rồi chứ, “Confucianisme et Marxisme” (La Pensée, No 105,
Octobre 1962). Ông Viện là cộng sản và là con cụ nghè Nguyễn Khắc Niệm đấy!
Đầu thế kỷ 20, trong xã hội
yêu nước vẫn âm ỉ một chủ nghĩa yêu nước xóm làng (village patriotism, chữ của
Alexander Woodside). Yêu nước chống Pháp kiểu Nho của cụ Phan Bội Châu thất bại
ở 2 thập kỷ đầu của thế kỷ 20. Và dòng trí thức Nho gia tàn lụi.
Một số con cháu nhà Nho, một
số con cháu nông dân, một số con cháu nhà công thương mới trở thành lớp trí
thức Tây học. Một số ấy chấp nhận le fait colonial và trở thành công chức cho
Tây, như ông cụ ông là kỹ sư canh nông, như ông cụ tôi là bác sĩ…
Một số khác, yêu nước hơn,
mong áp dụng ở Việt Nam những lý tưởng Mác - Lê thế kỷ 19. Cái chủ nghĩa quốc
gia của kiểu tư sản mà ông Nguyễn Thái Học, ông Xứ Nhu, kể cả cậu ruột ông đã
khởi xướng ở Việt Nam Quốc dân đảng thì đã bị thực dân vùi dập khủng bố tan
hoang từ thập kỷ 30. Còn lại cái chủ nghĩa quốc tế của Mác-Lê mà Nguyễn Ái Quốc
và những nhà cộng sản mang về áp dụng vào một xã hội nông dân châu Á nghèo khổ,
khác hẳn cơ địa xã hội tư sản Tây Âu, nơi hình thành chủ nghĩa Marxisme. Người
cộng sản Việt Nam có căn tính nông dân – Nho giáo đã gần Dân hơn người tiểu tư
sản Tây học ở thành thị. Họ đã vận động và tổ chức được phong trào nông dân và
toàn dân đánh Pháp, đuổi Nhật, làm cách mạng tháng Tám thành công. Kháng chiến
là sự nối dài của Cách mạng tháng Tám.
Kháng chiến đã thắng lợi. Chủ
nghĩa thực dân phương Tây đã bị hóa giải.
***
Dưới thời Quân chủ – Nông dân
– Nho giáo, ở Viễn Đông, có một ước mơ ĐẠI ĐỒNG. “Thế giới ĐẠI ĐỒNG, thiên hạ
VI CÔNG”.
Ở đầu thập kỷ 20, trong một
bài viết, Nguyễn Ái Quốc cho rằng cái chủ nghĩa ĐẠI ĐỒNG của Khổng Nho ấy rất
gần với chủ nghĩa Cộng sản.
Alexander Woodside nhận xét:
Ông Mao phê phán rất dữ dằn Khổng Nho còn ông Hồ rất nhẹ nhàng với Nho Khổng.
Xây “đời sống mới” năm 1946,
ông Hồ nêu khẩu hiệu của Nho Khổng: CẦN KIỆM LIÊM CHÍNH CHÍ CÔNG VÔ TƯ. Dạy đạo
đức cho cán bộ, ông Hồ lấy câu Nho Tống: “Tiên ưu hậu lạc”. Về giáo dục xã hội,
ông cũng dùng câu có sẵn của Khổng Mạnh, đại loại như “Bất hoạn bần nhi hoạn
bất quân…” (Không sợ thiếu chỉ sợ không công bằng…) hay là “Vì lợi ích mười năm
trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”, v.v… và v.v…
Đến di chúc, ông cũng đưa vào
một câu trích dẫn của Đỗ Phủ đời Đường: “Nhân sinh thất thập cổ lai hy”. Thơ
chữ Hán của ông, có nhiều câu, ý phỏng theo Đường thi…
Nhưng cái mô hình xã hội chủ
nghĩa kiểu Stalin hay kiểu Mao (Staline Mao hoá) dù đã ít nhiều Hồ hoá, Việt
Nam hoá cũng tỏ ra không thành công trước thực tiễn “bướng bỉnh” của một nước
Việt Nam nhỏ bé – tiểu nông.
Người Cộng sản Việt Nam đã
lầm khi tưởng rằng dù với cơ cấu kỹ thuật cũ, ít thay đổi, cứ làm đại việc công
hữu hoá (quốc hữu hoá, tập thể hoá, hợp tác hoá…) thì vẫn xoá bỏ được áp bức
bóc lột, cải tạo xã hổi chủ nghĩa thành công. Hoá ra là một công thức đơn giản
hơn:
CÔNG HỮU HOÁ + CHUYÊN CHÍNH
(VÔ SẢN) = (QUÁ ĐỘ sang) CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Tôi và ông Từ Chi bàn mãi về
chuyện này. Sau thời công xã nguyên thuỷ, chế độ áp bức bóc lột đầu tiên nảy
sinh ở đất Việt với chế độ “thủ lĩnh địa phương”, lang đạo, phìa tạo (tiếng Anh
tạm dịch là local chieftains) khi ruộng đất còn gần như y nguyên là “của công”,
nhưng “dân đen” là tiểu nông tản mạn, còn thủ lĩnh giữ quyền “thế tập” theo
dòng máu.
Dân gian nói giản dị:
"Trống làng ai đánh thì
thùng
Của chung ai khéo vẫy vùng
thành riêng"!
Thì giờ đây, ruộng hợp tác,
của kho hợp tác, bọn bí thư, chủ nhiệm, kiểm soát đều ở trong một cơ sở Đảng
chuyên chính, chúng sẽ “vẫy vùng” thành riêng thôi!
Ba năm liền từ 1976 đến 1979,
tôi đi Định Công (Thanh Hoá), ngày - khảo cổ ,đêm - khảo kim. Và 3 ngày liền
cuối năm 79, tôi thuyết trình trước Tỉnh ủy Thanh Hóa về sự phá sản của mô hình
làng Định Công (người ta tuyên bố “Định Công hóa” toàn tỉnh Thanh Hóa, với bài
báo tràng giang “Bài học Định Công” của Bí thư Trung ương Tố Hữu). Thính giả cứ
bỏ dần trước sự “vắng mặt” của Bí thư, Phó bí thư Tỉnh uỷ (người ta phải “nhìn
Trên” để định thế ứng xử). Còn một ông thường vụ phụ trách tuyên huấn kiên trì
nghe 3 ngày, để sau này khi Định Công phá sản hoàn toàn, đã khoa trương tuyên
bố, chứng tỏ ta đây sáng suốt hơn các nhà lãnh đạo khác:
- “Lúc bấy giờ (79), ai dám
nghe Trần Quốc Vượng nói, ngoài tôi?” (ông ấy bây giờ là Bí thư Đảng uỷ Bộ Văn
hoá – Thông tin).
Năm 1982 tôi đi Liên Xô
thuyết trình khoa học. Bài viết của tôi bằng tiếng Việt, Dương Tường dịch sang
tiếng Anh, Từ Chi dịch sang tiếng Pháp, bà Nona Nguyễn Tài Cẩn dịch sang tiếng
Nga. Bà Nona bảo: Bài của anh hay lắm, nhưng thuyết trình ở Paris thì hợp hơn,
nói với trí thức nước tôi (Liên Xô), họ không hoan nghênh đâu! Mà quả nhiên!
Về nước, tôi briefing cho bạn
bè nghe về Liên Xô và nói lén qua hơi men: “Dứt khoát hỏng!” Và đấy là lần duy
nhất tôi “được” đi Liên Xô. Đầu năm 1983, giáo sư Phạm Huy Thông cho đăng bài
của tôi lên trang đầu Tập san Khảo cổ học. Đảng uỷ Uỷ ban Khoa học Xã hội viết
bản báo cáo dài lên ban Tuyên huấn Trung ương quy kết tôi 4 tội:
- Chống chủ nghĩa Mác - Lê:
vì tôi bảo: Công hữu hoá có thể đẻ ra bóc lột.
- Chống công nghiệp hoá: vì
tôi bảo: Nông nghiệp phải / còn là mặt trận sản xuất hàng đầu.
- Chống đấu tranh giai cấp:
vì tôi bảo: Nông dân khởi nghĩa (ngay cả ăn cướp) cũng không đánh vào người
làng, mà chủ yếu đi cướp nơi khác và đánh vào Quan.
- Chống chuyên chính vô sản:
vì tôi bảo: Chuyên quyền đẻ ra tham nhũng.
Vụ án “văn tự” này kéo dài 3
năm, không có kết luận. Ba năm tôi được “ngồi nhà”, khỏi đi Tây và nói tiếng
Tây! Cuối năm 86, khi Đại hội VI đảng Cộng sản Việt Nam kết luận lại trong nghị
quyết là Nông nghiệp là “mặt trận hàng đầu”, giáo sư Phạm mỉa mai ở trụ sở Uỷ ban
Khoa học Xã hội: Thế bây giờ Đảng uỷ đúng hay Trần Quốc Vượng đúng ?
Nhưng “nỗi ám ảnh của quá
khứ” vẫn không tha người làm Sử như tôi (mà nói theo nhà Phật thì kiếp này còn
là “quả” của kiếp trước kia mà). Năm 1985, nhân năm “quốc tế người già”, ông Nguyễn
Hữu Thọ nhờ người nói tôi viết bài “Truyền thống người già Việt Nam”. Báo Đại
Đoàn Kết của ông không “đoàn kết” nổi bài của tôi, tôi nhờ báo Tổ Quốc của ông
Nguyễn Xiển đăng dùm. Rồi năm 1986 có hội Khoẻ Phù Đổng của đoàn Thanh Niên,
ông Bí thư Thanh Niên nhờ tôi viết bài “Phù Đổng khoẻ”. Mùa hè nóng bỏng 86,
trước Đại hội VI 5 tháng, ông Bí thư Trung ương Đảng phụ trách tư tưởng H.T.
đem hai bài của tôi ra “chửi bới” giữa Hội nghị mở rộng Ban Chấp hành Hội Nhà
báo Việt Nam, đề bạt Nguyễn Khắc Viện, Trần Quốc Vượng, Trần Văn Giàu, Trần
Bạch Đằng là 4 trí thức chống đối.
Ông Giàu, thầy học cũ của
tôi, đâm thư kiện. Ông H.T. biên thư trả lời (tôi còn giữ làm “chứng từ thanh
toán”) bảo: Tôi không động đến anh, tôi chỉ động đến Trần Quốc Vượng, vì anh ta
viết “Các vua Trần nhường ngôi” ám chỉ đòi chúng tôi rút lui, và viết “Thánh
Gióng bay lên trời” ám thị chúng tôi đánh giặc xong còn cứ ngồi lại giành quyền
vị…!
Khốn khổ, vì sao các ông ấy
cứ “mỗi lời là một vận vào khó nghe” như vậy? Hay là tại dân gian “nói cạnh”
các cụ: Có tật giật mình?
***
Xã hội Việt Nam truyền thống
cũ có nhiều nét hay, vẻ đẹp nên ở cạnh nước lớn, bị xâm lăng, đô hộ, đè nén
hàng ngàn năm vẫn trỗi dậy phục hưng dân tộc, “trở thành chính mình”. Nhưng xã
hội quân chủ – nông dân – nho giáo từ sau thế kỷ XV có nhiều “khuyết tật trong
cấu trúc” – nói theo các nhà khoa học hôm nay:
Ở trong NHÀ thì có thỏi GIA
TRƯỞNG, tuy tâm niệm “con hơn cha là nhà có phúc” mà vẫn không thích “ngựa non
háu đá”, “trứng khôn hơn vịt”.
Ở trong LÀNG thì có nạn CƯỜNG
HÀO, với tinh thần ngôi thứ, chiếu trên, chiếu dưới, “miếng giữa làng hơn sàng
xó bếp”.
Ở trong VÙNG thì có nạn SỨ
QUÂN, thủ lĩnh vùng thích “nghênh ngang một cõi”, gặp dịp là sẵn sàng “rạch đôi
sơn hà”.
Ở cả NƯỚC thì có nạn QUAN
LIÊU, quan tham nhũng, tân quan tân chính sách, luật không bằng lệ, kiện thì cứ
kiện nhưng “chờ được vạ má đã sưng”, nên chỉ cứng đầu thì dại, “không ngoan”
nhất là “luồn cúi”. Và trí thức “lớn” thì cũng tự an ủi “gặp thời thế thế thời
phải thế”.
Vì ngoài thì “bế môn toả
cảng”, trong thì “chuyên quyền độc đoán”, cho nên sĩ khí ắt phải bạc nhược.
Thế giới giờ đây thay đổi đã
nhiều. Song, trong nước mình thì chưa đổi được bao nhiêu. “Nỗi ám ảnh của Quá
khứ” vẫn còn đè nặng.
Chỉ còn một cách để “đổi đời”
cho DÂN, cho NƯỚC: Đó là xây dựng một chế độ dân chủ, một nhà nước pháp quyền,
một nền kinh tế công – nông – nghiệp với thị trường tự do, một tư tưởng cởi mở,
rộng dung, khoáng đạt, tự do, một nền văn hoá đa dạng, giữ cho được bản sắc tốt
đẹp của dân tộc nhưng biết hoà nhập với thế giới, với nhân gian…
Tóm một chữ thì không phải là
chữ “ĐẤU” mà là chữ “HÒA”: HÒA BÌNH, HÒA HỢP, HÒA THUẬN, HÒA GIẢI…
Chẳng những NHÂN HÒA mà cả
NHIÊN HÒA (hoà hợp với thiên nhiên, tự nhiên)
“Hoà nhi bất đồng”… mong lắm
thay!
Cornell 01/5/1991. (Viết cách
nay hơn 30 năm trời.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét