Dân
trí Hiện nay cả nước có 412 trường
ĐH,CĐ tính bình quân mỗi tỉnh, thành phố có khoảng 6,6 trường ĐH,CĐ; cả nước có
khoảng 2,2 triệu sinh viên trong tổng dân số 95 triệu dân, cao hơn cả các quốc
gia phát triển. Đây là một trong những nguyên nhân khiến số lượng cử nhân, thạc
sĩ thất nghiệp ngày càng tăng.
>> 3 tháng đầu năm, 225.000 cử nhân thất nghiệp
>> 3 tháng đầu năm, 225.000 cử nhân thất nghiệp
Vừa qua, hội thảo “Đổi mới công tác đào tạo nhân lực cho
các khu công nghiệp và khu chế xuất ở Việt Nam” do Ban Tuyên giáo Trung ương
phối hợp Bộ GD&ĐT, Bộ LĐ-TB&XH, Chương trình đổi mới đào tạo nghề tại
Việt Nam (GIZ) tổ chức, đã thống kê Quý 1/2016 cả nước có 225.000 người có
trình độ cử nhân, thạc sĩ thất nghiệp. Đây là con số báo động mạnh mà nhiều
chuyên gia đã phản ánh. Tuy nhiên, tình trạng này có nhiều nguyên nhân, dưới
góc độ chuyên gia giáo dục cho chúng ta hiểu rõ hơn về thực trạng nguyên nhân
thất nghiệp này.
Quản
lý yếu kém
Theo nghiên cứu của
PGS.TS Nguyễn Ngọc Quang, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, những năm, qua đào
tạo đại học tăng khá mạnh về quy mô, số lượng dẫn đến chất lượng còn nhiều bất
cập, dư luận xã hội phê phán nhiều. Theo GS.TS. Hoàng Chí Bảo - chuyên viên cao
cấp, chủ tịch hội đồng khoa học phát biểu trong hội nghị cán bộ của một số
trường đại học thì “Giáo dục Việt Nam đang suy thoái nghiêm trọng, như mở ồ ạt
các trường Đại học, Cao đẳng. Tình trạng thương mại hóa giáo dục; quá tải trong
học sinh các cấp học, tình trạng dạy thêm học thêm tràn lan. Đào tạo dàn trải,
thừa thầy thiếu thợ, không đáp ứng nhu cầu công việc trong thực tiễn sản
xuất...”
Nhiều nguyên nhân
dẫn đến chất lượng đào tạo đại học của Việt Nam còn hạn chế, theo các chuyên
gia đánh giá: Chưa làm chủ được công nghệ truyền tải, kỹ năng chuyên nghiệp
yếu, thiếu tư duy sáng tạo, kỹ năng mềm yếu, chưa thâm nhập được vào công việc,
năng suất lao động thấp, quan cách trong phục vụ, thụ động trong công việc...
Chất lượng đào tạo kém do nhiều nguyên nhân khác nhau, cụ thể: Năng lực yếu kém
của bộ máy tham mưu, quản lý và điều hành giáo dục cấp vĩ mô và vi mô.
Cũng theo nghiên
cứu của PGS.TS Nguyễn Ngọc Quang, muốn xây dựng nền giáo dục hội nhập thành
công trong thời kỳ toàn cầu hoá và kinh tế tri thức đòi hỏi một trình độ chuyên
nghiệp cao và một tinh thần trách nhiệm lớn. Trong công tác quản lý vĩ mô giáo
dục đã có rất nhiều chương trình, đề án được đầu tư với chi phí lớn, hy vọng
mang lại sự đổi mới giáo dục toàn diện, nhưng đem lại kết quả không như mong
đợi.
Quản lý tài chính
trong toàn ngành yếu kém, thiếu minh bạch, không tạo được niềm tin rằng tăng
đầu tư cho giáo dục sẽ tăng chất lượng tương ứng. Ví dụ: Một đề án 6 năm để
phát triển giáo dục đại học được đầu tư 115 triệu USD (trong đó vay của World
Bank 85 triệu), mới thực hiện được vài năm đã bị WB tạm đình chỉ vì quản lý
không hiệu quả... Trình độ chuyên nghiệp của cán bộ trong bộ máy quản lý cấp
cao còn hạn chế, trong khi đó tổ chức bộ máy cồng kềnh với nhiều vụ, viện với
biên chế lớn, mà năng suất, hiệu quả công việc lại thấp.
Tại các trường đại
học cũng lặp lại mô hình đó, sự thiếu chuyên nghiệp cùng với bộ máy quản lý
cồng kềnh và sự thiếu trách nhiệm của một số cán bộ là khá phổ biến trong bộ
máy điều hành của nhiều trường đại học công hiện nay.
Coi
nhẹ chất lượng, chạy theo số lượng
Theo PGS Nguyễn
Ngọc Quang, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, tình trạng sa sút của giáo dục đại
học có một phần trách nhiệm rất lớn của Đảng ủy, Ban Giám hiệu các trường đại
học, đặc biệt các trường công lập.
Các trường chạy
theo số lượng đào tạo mà coi nhẹ chất lượng. Trong cơ chế tự chủ tài chính nửa
vời như hiện nay đã dẫn tới đa số các trường đại học chạy theo số lượng quy mô
đào tạo để có nguồn tài chính bù đắp các khoản chi thường xuyên. Hệ quả là một
số trường công đua nhau tuyển giảng viên để tăng số lượng theo quy chế của Bộ
Giáo dục và Đào tạo mà coi nhẹ chất lượng giảng dạy, để từ đó có điều kiện
tuyển số lượng sinh viên mà không quan tâm tới nhu cầu của xã hội và chất lượng
đào tạo, dẫn đến lượng sinh viên tốt nghiệp bị thất nghiệp ngày càng cao.
Hiện nay cả nước có
412 trường đại học, cao đẳng tính bình quân mỗi tỉnh, thành phố có khoảng 6,6
trường đại học, cao đẳng; cả nước có khoảng 2,2 triệu sinh viên trong tổng dân
số 95 triệu dân; cao hơn cả các quốc gia phát triển.
Về chương trình đào
tạo Chương trình đào tạo đại học của các trường đại học thường xây dựng chưa
được công phu, chưa đáp ứng nhu cầu của người sử dụng lao động, chưa xuất phát
từ điều kiện thực tiễn của nền kinh tế có nhiều biến động. Thông thường xây dựng
chương trình đào tạo còn mang tính chủ quan, chưa thông qua kết quả khảo sát,
nghiên cứu của các chuyên gia và doanh nghiệp... Nhiều trường đại học sử dụng
chương trình còn sao chép của các trường khác, sau đó cắt bớt tỷ lệ % số tiết
theo chủ quan của người xây dựng.
50%
sinh viên học đối phó và lười học
Cũng theo nghiên
cứu của PGS.TS Nguyễn Ngọc Quang, trong nhiều năm qua, số lượng sinh viên đại
học chính quy của các trường đại học tăng mạnh, trong khi số lượng giảng viên
tăng nhưng chất lượng chưa tương xứng. Có một số giảng viên còn hạn chế về kỹ
năng thực tiễn và lĩnh vực học thuật chuyên môn, cũng do nhiều nguyên nhân như
khâu tuyển chọn ban đầu chưa kỹ, quá trình đào tạo, sàng lọc ở cấp bộ môn chưa
thực sự nghiêm túc.
Về thực trạng của
sinh viên hiện nay kỹ năng mềm còn hạn chế, kiến thức cơ bản chưa vững. Do vậy
chất lượng của sinh viên có thể chia thành 3 nhóm: Nhóm thứ nhất khoảng 20% là
các sinh viên tích cực, chăm chỉ trong học tập và có thái độ nghiêm túc; Nhóm
thứ 2 khoảng 30% là các sinh viên học bình thường; Nhóm thứ 3 khoảng 50% là
sinh viên học đối phó và lười học.
Thế nhưng kết quả
cấp bằng của một số ngành đưa ra con số đáng kinh ngạc, khoảng 70% bằng giỏi,
điều này không những phản ánh không thật về chất lượng đào tạo mà còn ảnh hưởng
tới uy tín của Nhà trường.
Có một số giảng
viên lâu năm khi nói về quan hệ thầy - trò hiện nay như sau: “Cơ chế thị trường
làm cho thầy sợ trò”, quan niệm này khi phân tích ra là đúng với một số trường,
sợ sinh viên bỏ học, Nhà trường mất thu nhập, do vậy thầy cho điểm cao không
đúng kiến thức tích lũy của trò.
Nên
chăng xóa bỏ Hội đồng trường?
Trong
nghiên cứu của mình, PGS.TS Nguyễn Ngọc Quang đã đưa ra 3 giải pháp cụ thể: Thứ
nhất, các trường tự chủ và tự chịu trách nhiệm về tổ chức và quản lý
bộ máy. Để tăng tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm với xã hội trong tổ chức đào
tạo thì bộ máy quản lý của các trường phải tiếp tục được hoàn thiện, như tinh
gọn bộ máy, đồng thời phân công, phân cấp hợp lý giữa các bộ phận tránh chồng
chéo. Hiện đại hóa công nghệ thông tin trong các giai đoạn, nhằm giảm số lượng
người ở từng mắt xích trong chuỗi công việc.
Đối với Hội đồng
trường, thực tế nhiều trường đã thành lập nhưng chưa phát huy đúng chức trách
và nhiệm vụ, và còn mang tính hình thức. Nên chăng có thể xóa bỏ để bộ máy bớt
cồng kềnh.
Thứ
hai, các trường tự chủ và tự chịu
trách nhiệm về tài chính Quản lý tài chính đóng vai trò quan trọng trong cơ chế
tự chủ tài chính của các trường đại học hiện nay. Đây là vấn đề then chốt nhằm
đảm bảo quá trình tự chủ và tự chịu trách nhiệm được thực hiện đầy đủ, khách
quan, công bằng và minh bạch. Đây cũng là tiền đề để Nhà trường ổn định và phát
triển bền vững.
Thứ
ba, các trường tự chủ về kế hoạch,
chương trình đào tạo và đội ngũ giảng viên Các trường cần hoàn thiện các quy
định, quy trình liên quan đến phân cấp, quản lý đào tạo để tiếp nhận và thực
hiện quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm hoàn toàn trong tổ chức đào tạo.
Giảng viên các
trường đại học phải là nhà nghiên cứu khoa học phục vụ cho chuyên môn đào tạo
của mình, thường xuyên nghiên cứu cái mới và công khai trên các tạp chí để thảo
luận cùng với các độc giả và đồng nghiệp.
Nâng cao chất lượng
đào tạo đại học tại các trường đại học trong giai đoạn hiện nay là vấn đề nan
giải trong bối cảnh chung của giáo dục đại học Việt Nam. Giải quyết bài toán
chất lượng đào tạo nguồn nhân lực đòi hỏi phải có thời gian, cần phải có những
chuyển động tích cực từ các trường đại học trong đó Hiệu trưởng là người đứng đầu
phải giải quyết vấn đề này.
Hồng Hạnh (ghi)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét